Saturday, October 3, 2009

Việt Nam 54-63

Chiến Tranh Việt Nam 1954 -1963: Độc Lập Quốc Gia và Lý Tưởng Tự Do Hạnh-phúc

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn
Tháng I0.2008
Khi có độc lập và chủ quyền quốc gia, tức là khi đã có được giang sơn và chính quyền rồi, các nhà lãnh đạo sẽ phải làm gì?
Câu trả lời thật đơn giản: Bảo vệ độc lập, sự toàn vẹn lãnh thổ và phát triển dân sinh để làm cho dân giầu n­ước mạnh. Khi còn chống thực dân Pháp, cả phe Cộng Sản lẫn người quốc gia đều đưa ra khẩu hiệu “Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc”. Việt Nam đã có độc lập từ 1954, nhưng tại sao xã hội Việt Nam ngày nay vẫn chưa có “Tự Do và Hạnh phúc”?
Tục ngữ dân gian Việt Nam dạy rằng muốn làm việc gì cho kết quả mỹ mãn cần ba yếu tố quan-trọng. Đó là “thiên thời, địa lợi và nhân hòa”. Có thể xã hội Việt Nam còn thiếu một yếu tố nào đó cho nên vẫn chư­a có “tự do hạnh phúc”? Bài viết này lấy các gia trị văn hóa Việt Nam và Chủ nghĩa Nhân Vị làm tiêu chuẩn phân tích vấn đề. Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được dùng làm đối tượng phân tích. Và kết luận sẽ đ­ược rút ra từ phần so sánh các sự kiện lịch sử:
Sự hữu hiệu của một định chế chính trị hoặc kinh tế đều tùy thuộc vào con người trong cơ cấu. Sở dĩ xã hội Việt Nam chưa có được tự do và hạnh phúc vì chưa có được yếu tố “nhân hòa”, hay nói theo Nhân Vị là vì trong xã hội Việt Nam “Con người chưa được tôn trọng và quan niệm về thiện ích chung vẫn chưa phát triển mạnh mẽ trong các tầng lớp dân chúng và viên chức trong các cơ quan công quyền.[1] Nên dù có được thiên thời, địa lợi mà không có được lòng người thì tất cả những gì đã đạt được đều vô nghĩa và cũng sớm tan biến đi.
Thiên Thời
“Lý tưởng độc lập quốc gia” nếu nhìn từ trong chính trị nội bộ (domestic politics), là một thực tại lịch sử luôn được mọi người dân trong một nước trân quý và họ sẵn sàng đem xương máu để bảo vệ nó. Đây cũng là ngọn cờ chính nghĩa mà những nhà làm cách mạng luôn mang theo bên mình để qui tụ lòng người trên con đường chống đế quốc xâm lược, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng khi đứng ở lập trường bang giao quốc tế (chính trị của sức mạnh [power politics]), “lý t­ưởng độc lập quốc gia” dù đã được đề cao trong Hiến Ch­ương của Liên-hiệp-Quốc bằng các cụm từ “quyền tự quyết và chủ quyền quốc gia” và đựợc Công Pháp Quốc Tế bảo vệ, vẫn bị chà đạp dễ dàng. Ví dụ, trong Chiến Tranh Việt Nam (CTVN), giai đoạn từ 1963 đến 1975, chính người Mỹ đã chủ động xen vào chính trị nội bộ để đưa Miền Nam Việt Nam vào vòng lệ thuộc Hoa Kỳ.
Tóm lại quan hệ giữa một tiểu quốc gia độc lập và các siêu cường là quan hệ một chiều dựa trên căn bản quyền lợi và sức mạnh. Trong bang giao quốc tế chẳng hạn, một vị đại sứ chính là biểu tượng của sức mạnh và quyền lợi quốc gia trong quan hệ một chiều này. Họ được trả lương và được quyền miễn nhiễm (luật pháp quốc gia) chỉ để lo bảo vệ quyền lợi và uy quyền quốc gia chứ không phải để đại diện cho công lý hay lương tâm của nhân loại. Cho nên trong cộng đồng các quốc gia, sự thành công hay thuận lợi của chính trị nội bộ đều phải nương theo chính trị thế giới mà đổi thay. Nói cách khác mọi toan tính đại sự đều phải dựa vào thời vận mà định đoạt.
            Phải Chăng VNCH Còn Thiếu Một Chữ Thời? Và thời vận của đất nước Việt Nam là gì? Trong tờ báo Nam Phong, ông Phạm Quỳnh (1931) viết:
            “Xét về địa lý lịch sử chính trị, n­ước ta ở sát nách nước Tầu giống như một cây nhỏ mọc bên cái cây lớn bị nó “cớm” không thể nào nẩy nở lên được. Chỉ có thể núp bóng mà thôi.”
Như vậy thời vận tốt của đất n­ước Việt Nam chỉ có thể xuất hiện khi cây đại thụ Tầu bị rụng lá sâu mọt. Chẳng hạn như vào cuối Thế Kỷ thứ 10, Tống Nho đã làm nước Tầu suy yếu hủ bại. Việt Nam đã lợi dụng thời cơ này dành lại độc lập vào năm 939. Ngoài ra, trong bối cảnh chiến tranh lạnh (1945-1989) cái thời của VNCH còn bị chi phối nặng nề bởi những cây đại thụ khác như siêu-c­ường Hoa Kỳ và Nga Sô. Nói một cách đơn giản, thời vận của Việt Nam tốt hay xấu phải tùy thuộc vào sự sắp xếp chia chác quyền lực giữa các siêu c­ường, đặc biệt là giữa Hoa Kỳ, Nga Sô và Trung Cộng. Để thấy được vận của VNCH lúc đó tốt hay xấu, mời quý độc giả tìm hiểu lại ảnh hưởng của Hoa Kỳ Nga Sô và Trung Cộng trong việc hình thành hai hiệp định quốc tế về Việt Nam: Genève 1954 và Paris 1973.
       Hiệp Định Genève 1954 và Paris 1973
Hiệp Định Quốc Tế Đình Chiến 1954 được ký kết giữa Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh Cộng Sản). Để chấm dứt cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh, các cường quốc Anh, Pháp, Nga và Trung Cộng họp tai Genève quyết định: Kể từ 21-7-1954, Việt Nam được chia ra làm hai Miền tại Vĩ Tuyến 17, lực lượng quân sự của Pháp và chính phủ Bảo Đại lãnh đạo phe Việt Nam không Cộng Sản sẽ tập họp lại ở phía Nam vĩ tuyến và chính phủ của Hồ Chí Minh cùng lực lượng Việt Minh chiếm đóng phía Bắc vĩ tuyến. Một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 để tái thống nhất Việt Nam.
Một số sự kiện cần được ghi nhận để có thể thẩm định xem vận tốt hay xấu đã đến với dân tộc và đất nước qua ảnh hưởng mạnh mẽ của các siêu cường và sự bất lực của Việt Nam trong việc hình thành hiệp định đình chiến chia đôi đất n­ước này. Trư­ớc thềm hội nghị, Ngoại Tr­ưởng Nga Molotov đã ngỏ ý với Ngoại Trưởng Pháp George Bidault là “Nga sẽ nhờ Tầu làm áp lực Việt Minh để Pháp có thể an toàn rút ra khỏi Việt Nam nếu Pháp chịu đứng ra ngăn chặn việc hình thành khối European Defence Community (tiền thân của khối NATO). Trong khi đó Mao Trạch Đông ngỏ ý với Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles rằng “Để có thể duy trì nền hòa bình thế giới lâu dài, Trung Quốc muốn có một vùng trái độn ở dưới phía Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của Tầu.” Khi nói “duy trì nền hòa bình thế giới”, Mao Trạch Đông muốn nói gì? Đó chính là sự lo lắng của Tây Âu và Hoa Kỳ về “Thế Chiến thứ Ba”, một cuộc chiến tranh nóng, một cuộc chiến tranh nguyên tử.[2]
Tại sao Mao Trạch Đông lại đưa ra yêu cầu với Hoa Kỳ về một giải pháp chính trị cho Việt Nam, Căm Bốt và Lào trước thềm hội nghị khi mà Hoa Kỳ lại không phải là thành viên chính thức của Hiệp Nghị Genève về vùng đất này? Ngoài ra, Hoa Kỳ là siêu cường mạnh hàng đầu thế giới lúc ấy, tại sao lại không muốn can dự vào việc sắp xếp lại ảnh hưởng của các cường quốc tại khu vực này sau Thế Chiến II? Sử gia Stanley Karnow kể lại :
Vào buổi chiều ngày 20 tháng 7, Molotov triệu tập một buổi họp tại biệt thự riêng, Le Bocage, với sự hiện diện của Mendes-France (Pháp), Châu Ân Lai (Tầu), Anthony Eden (Anh), và TT Phạm Văn Đồng (Việt Nam). Molotov cố ý không mời phái đoàn đại diện của Bảo Đại và Bedell Smith. Họ bắt đầu ‘mặc cả’ (bargain). Vì bị các cường quốc bao vây, Phạm Văn Đồng toát mồ-hôi và đành phải đưa đề nghị ranh giới chia đôi tại vĩ tuyến 16 thay vì tại vĩ tuyến 13 như đã dự tính trước. Mendes-France vẫn giữ lập trường của Pháp là vĩ tuyến 18. Nhưng Molotov lên tiếng “Thôi chúng ta hãy đồng ý với nhau ở vĩ tuyến 17.”[3]
Bằng chứng cho thấy Mỹ không đóng một vai trò gì trong cuộc th­ương thuyết này mà chỉ đặt một quan sát viên tại bàn hội nghị là Phụ Tá của Ngoại Trưởng Foster Dulles, ông Bedell Smith; Hoa Kỳ chỉ đưa ra lời tuyên bố chung cuộc chấp nhận hiệp định là “Hoa Kỳ sẽ tôn trọng nguyên trạng (status-quo) của Hiệp Định Ngưng Bắn Genève”. Tuy nhiên sau hậu trường chính trị (behind the scene), Hoa Kỳ lại chính là siêu c­ường quyết định mọi điều khoản chính yếu trong hiệp định. Ví dụ ranh giới chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 đã được quyết định tại Washington ba tuần lễ tr­ước đó. Molotov chỉ lập lại những gì đã được Hoa Kỳ quyết định trước. Ngoại Trưởng Anh Anthony Eden viết hồi ký kể lại như sau:
Khi hòa đàm bế tắc, ngày 29 tháng 6, 1954 Thủ Tư­ớng Churchill và tôi đã đến Washington để tham khảo ý kiến Ngoại Trưởng Foster Dulles. Và ông Dulles đã chỉ thị rằng Mỹ chỉ chấp nhận ranh giới chia đôi Việt Nam tại Vĩ Tuyến 17.[4]
Là một siêu c­ường mạnh nhất mà lại không phải là một thành viên ký kết, nên khi Hoa Kỳ tuyên bố sẽ “tôn trọng nguyên trạng của Hiệp Định”, họ sẽ làm gì để giúp việc thực thi hiệp định này? Thật ra, người Mỹ đã kiên trì thực hiện lời tuyên bố này suốt từ 1954 và đã đạt được ý nguyện vào ngày 29 tháng 7 năm 1971. Dưới đây là nội dung cuộc điều đình bí mật giữa Ngoại Tr­ưởng Henry A. Kissinger và Thủ Tướng Châu Ân Lai:
“Dr Kissinger nói “Chúng tôi tin tưởng rằng vì lợi ích của dân chúng ở Đông Dương và nền hòa bình thế giới, đã đến lúc phải vãn hồi hòa bình. Hà Nội tưởng rằng họ đã bị lừa hồi năm 1954. Nhưng tôi muốn thưa với ngài rằng chúng tôi là những con người theo chủ nghĩa hiện thực (realists). Chúng tôi biết rất rõ là một khi hòa bình đã được vãn hồi, lúc đó chúng tôi đã cách xa Việt Nam đến 10.000 dặm rồi, trong khi quân đội chính qui Bắc Việt sẽ vẫn còn hiện diện trong lãnh thổ Nam Việt Nam... Tôi cũng đã bí mật gặp Lê Đức Thọ tại Paris hôm 31 tháng 5 và hứa với ông ấy rằng Mỹ sẽ đưa ra ngày tháng cụ thể về một lịch trình rút toàn bộ quân lực Mỹ ra khỏi Việt Nam và thực hiện đầy đủ các điều khoản của Hiệp Định Genève..[5]
Như vậy Hiệp Định Paris 1973 chính là “tác phẩm” của Ngoại Trưởng Mỹ H. Kissinger nhằm thực-hiện việc tái thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN theo tinh thần Hiệp Định Genève 1954[6] mà không cần phải tổ chức tổng tuyển cử. Đồng thời nhân danh nền hòa bình thế giới, TS H. Kissinger đã thỏa mãn lời yêu cầu của Mao Trạch Đông thực hiện một vùng trái độn dưới phía Nam của Tầu và nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Cộng. Giải pháp chính trị này có nghĩa là không chấp nhận sự hiện hữu của bất cứ một chính phủ quốc gia nào theo Mỹ ở trong “vùng trái độn”. Quốc gia mang tên là VNCH vì vậy không hiện hữu trong giải pháp chính trị quốc tế này. Để đổi lại Hoa Kỳ muốn gì ở Trung Quốc? Người Mỹ hy vọng Trung Quốc sẽ đứng về phía Hoa Kỳ để làm cho cán cân lực lượng trong Chiến Tranh Lạnh với kẻ thù Nga Sô sẽ nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ.[7] Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Tầu năm 1972 đã tháo gỡ lo lắng của Tây Âu về một cuộc chiến tranh nguyên tử có thể do Nga Sô gây ra;[8] đồng thời cán cân quân bình lực lượng trong chiến tranh lạnh cũng nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ, báo hiệu sự sụp đổ của khối Sô Viết vào năm 1989.
Tới đây, có hai sự kiện lịch sử mà từ trước đến nay người Việt chúng ta hoặc không chú ý đến hoặc hiểu lầm về CTVN. Thứ nhất, một quốc gia có tên là Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn không có trong dự liệu của Hiệp Định Genève và cũng không hiện hữu trong chính sách duy trì nền hòa bình thế giới của Mỹ (mặc dù lúc chào đời VNCH đã được hơn 80 quốc gia trên thế giới công nhận). Thứ hai là các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ không có ý định bảo vệ VNCH và cũng không có ý định tìm một chiến thắng về quân sự ở Việt Nam.[9]
Theo Giáo S­ư Sử Học Phạm Cao Dương, để lãnh hội những gì có thể giải thích về thái độ khó hiểu của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam từ 1954 đến 1973, chúng ta phải hiểu rõ về cơ cấu của nền chính trị Hoa Kỳ: (a) Trung tâm quyền lực cai trị Hoa Kỳ không phải là Tổng Thống Hoa kỳ[10] và (b) bản chất chồng chéo giữa hai chính sách đối nội và đối ngoại của Hoa Kỳ. Ví dụ như chính sách đối với phong trào phản chiến hay việc gởi quân sang Việt Nam, lúc nào là đối nội và lúc nào là đối ngoại?
            Phạm vi bài viết này không cho phép khai triển thêm các vấn đề này. Nhưng tôi có thể đặt ra đây hai câu hỏi để chúng ta cùng suy gẫm về thái độ khó hiểu của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam:
(a) Tại sao người Mỹ lại không đóng quân dọc theo biên giới tại Vĩ Tuyến 17 giống nh­ư họ đã làm tại Đại Hàn (VT 38) và Đức (Bá Linh) để bảo vệ Miền Nam và ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản?
(b) Cán cân quân bình lực lượng của chiến tranh Việt Nam đang ngang ngửa nhưng vào năm 1965 đã nghiêng hẳn về phe Miền Nam vì sự hiện diện của một lực luợng khổng lồ 500 ngàn quân Mỹ với vũ khi tối tân nhất thế giới. Tại sao VNCH và đồng-minh không đánh bại được đối phương?
            Tóm lại, đối với “cái vận xấu” của dân tộc và đất nước Việt Nam, ngoài cây đại thụ Tầu, vận xấu còn liên tục ám ảnh kể từ hạ bán Thế Kỷ 19 khi Pháp bước vào Việt Nam cho đến nay. Đặc biệt đối với phe người quốc gia và chế độ Cộng Hòa mà họ dựng lên đã không gặp thời vì sự hiện hữu của nó lại nằm ngoài dự tính của các nhà làm chính sách Hoa Kỳ. Chủ trương độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa giống như một hòn đá nằm cản lối trên con đường đi tìm lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. Vì thế họ mới tuyên bố “Diệm phải ra đi”.[11]
Nhưng ông Ngô Đình Diệm cương quyết chống lại định mệnh: “Tôi quyết tâm chọn con đư­ờng hy sinh để bảo vệ phẩm giá con người.” Ông đã hành sử đúng như một “Chí Sỹ Nho Giáo”: “Chí Sỹ nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân”[12] và Còn biết bao nhiêu anh hùng vô danh, quân dân cán chính của Miền Nam Việt Nam vì độc lập tự do đã can dự vào một cuộc chiến vô vọng, để lật ngược lại một quyết định đã được Hoa Kỳ và Tầu đề ra từ 1954.
VNCH gặp phải vận xấu nên phần lớn tiềm lực quốc gia đã phải tập trung vào việc bảo toàn nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, mục tiêu phát triển dân sinh vì vậy khó lòng mà thực hiện. Giả sử gặp thời vận xấu nhưng nếu có được hai yếu tố địa lợi và nhân hòa và một hệ thống lãnh đạo hữu hiệu tạo được thời thế, liệu mục tiêu phát trển dân sinh có thể nào thực hiện được không?
      Địa Lợi - Nhân Hòa
Người Việt Nam thường nói “Anh hùng tạo thời thế.” Và Việt Nam không thiếu anh hùng. Ngay trong hậu bán thế kỷ vừa qua đã có rất nhiều anh hùng nư­ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng, Tướng Trần Văn Hai và còn nhiều anh hùng vô danh khác. Họ đã tạo ra “thời” nhưng cái “thời” ấy đã không tụ phát mà lại sớm qua đi.
Ông Ngô Đình Diệm đã tạo ra “thời, địa lợi và nhân hòa”. Năm 1954, Hiệp Định Genève đã dành cho phe người quốc gia giải giang san từ mũi Cà Mâu đến Vĩ-tuyến 17. Nhưng tình hình chính trị hoàn toàn không thuận lợi để bảo toàn độc lập và thực hiện công cuộc cách mạng dân sinh. T.S. Mark Moyar viết:
“Ở trong Nam, những phe nhóm không-cộng-sản rất hung mạnh nhưng không chịu thuần phục chính phủ trung ương vừa mới được thành lập, trong khi đó ở ngoài Bắc những phe nhóm chính trị chống đối chính quyền trung ương lại tương đối yếu. Vì thế Miền Bắc chỉ cần thời gian để phục hồi và củng cố sức mạnh, trong khi ở Miền Nam lại cần phải có thì giờ để xây dựng một quốc gia đoàn kết với những điều kiện không lấy gì làm lý tưởng cho lắm”.[13]
Mặc dù gặp phải “những điều kiện không lấy gì làm lý tưởng”, nhưng ông Ngô Đình Diệm đã vận dụng và hành xử hữu hiệu quyền lực, dẹp tan các lực lượng vũ trang chống đối chính phủ và bình định lãnh thổ đặt toàn bộ Miền Nam Việt Nam dưới quyền cai trị của chính quyền trung ương. Đồng thời tuyên bố hủy bỏ tổng tuyển cử tái thống nhất đất nước, truất phế Vua Bảo Đại qua một cuộc trưng cầu dân ý và tuyên bố Nam Việt Nam là một chế độ Cộng Hòa không bị ràng buộc pháp lý bởi Hiệp Định Genève. Có đ­ược hai yếu tố “thời và địa lợi”, ông Ngô Đình Diệm tạo ra yếu tố “nhân hòa” khi đứng ra lãnh đạo một chính phủ “phúc lợi” để hướng dẫn chính sách phát trển dân sinh. Ông long trọng tuyên bố: “chính phủ do tôi lãnh đạo có một nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ nền độc lập quốc gia và nâng cao đời sống và hạnh phúc cho toàn dân.[14] Để thấy được tầm quan trọng của yếu tố nhân hòa trong công cuộc dựng nước giữ nước và thực hiện mục tiêu tự do và hạnh phúc của Chính Phủ Ngô Đình Diệm, cần tìm hiểu một cách chi tiết guồng máy lãnh đạo, tổ chức chính quyền và chính sách phát triển của nền Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trước hết là thành phần lãnh đạo. Tinh thần ái quốc và đạo đức của ông Ngô Đình Diệm, người lãnh đạo nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, không những được người ủng hộ ca ngợi mà ngay cả kẻ thù cũng phải thừa nhận. Cựu đảng viên Cộng Sản Bùi Tín kể lại lời bình phẩm của Hồ Chí Minh về lòng yêu nước của ông Ngô Đình Diệm nh­ư sau:
“Mặc dù chúng tôi vẫn thường công khai chỉ trích Ngô Đình Diệm là bù nhìn tay sai của Mỹ, nhưng ông Hồ Chí Minh lại cho rằng tinh thần ái quốc của ông Diệm chẳng thua gì mình, nhưng được thể hiện bằng những phương cách khác nhau. Sau này có rất nhiều người đã nhận biết và đánh giá ông Diệm là một nhà lãnh đạo chính trị đầy lòng ái quốc và sống một cuộc sống thanh bạch và ngay thẳng. Ông Diệm cũng giống như ông Hồ Chí Minh, không có vợ. Riêng tôi (Bùi-tín) cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị rất độc đáo, với một tinh thần yêu nước thật sâu đậm, đầy lòng can đảm và chính trực, lại có một lối sống đơn giản và vị tha. Nếu phải so sánh lãnh tụ của hai miền Nam-Bắc, tôi cho là ông Hồ Chí Minh thua xa, không thể nào sánh bằng ông Ngô Đình Diệm đ­ược.”[15]
Ông Ngô Đình diệm không phải bù nhìn hay tay sai của Mỹ như luận điệu tuyên truyền của Việt Minh Cộng Sản. Tổng Thống Mỹ và những nhân vật cao cấp Hoa Kỳ đã từng tiếp xúc và làm việc với ông Diệm đều thừa nhận cái lập trường độc lập sắt đá của ông Diệm. Ông Diệm thường nhắc nhở các viên chức Mỹ rằng “Chúng tôi không muốn trở thành một nước bảo hộ của ng­ười Mỹ.” Khi biến cố chính-trị 1-11-1963 xảy ra, Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge đã điện thoại và yêu cầu TT Ngô Đình Diệm hãy rời bỏ Dinh Gia Long để đến tị nạn tại Tòa Đại Sứ Mỹ vì các tướng lãnh phản loạn có thể sẽ giết anh em ông. TT Ngô Đình Diệm đã trả lời ông Đại Sứ Lodge như sau:
“Thưa ông Đại Sứ, ông có biết ông đang nói chuyện với ai không? Tôi muốn báo cho ông biết rằng ông đang nói chuyện với một Tổng Thống của một quốc gia độc lập có chủ quyền. Tôi chỉ rời khỏi đất nước này nếu đó là nguyện vọng của dân tộc tôi. Tôi sẽ không bao giờ ra di theo yêu cầu của một số tướng lãnh phản loạn hay của ông Đại Sứ Mỹ.”[16]
Sau này TS Kissinger xác nhận tính khả tín của cuộc đối thoại lịch sử này. ông viết: “Cả hai ông Diệm và Thiệu đều là những nhà ái quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ khi đến lúc quyết liệt thì ông Thiệu bỏ đi còn ông Diệm ở lại chịu trận.”[17]
Tinh thần Độc Lập trong t­ư tưởng chỉ đạo công cuộc Cách Mạng của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa.
Phản ứng của ông Ngô Đình Diệm với ĐS Cabot Lodge không những là một bằng chứng lịch sử về lòng dạ sắt son của ông đối với đất nước mà còn là nền tảng vững chắc cho một chủ thuyết chính trị phát triển quốc gia. Chủ Thuyết Nhân Vị do hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu hình thành được các sử gia đánh giá là “con đường thứ ba”[18] vì nó không rập khuôn theo hai chủ nghĩa Tư­ Bản và Cộng Sản. Tinh thần độc lập trong quan niệm nhân vị phát xuất từ những giá trị văn hóa cổ truyền Việt Nam: Đức Nhân của Nho Giáo chính thống và lý tưởng Thái Hòa của văn minh Việt-Nho, một xã hội nông-nghiệp với một hệ thống luân lý đạo đức rất hữu hiệu và một đời sống phong lưu nhàn tản, đã hiện hữu nhiều ngàn năm trước khi Hán Tộc bành trướng ở lục địa Trung Hoa. Vì thế Chủ Nghĩa Nhân Vị là một chủ nghĩa dân tộc, phù hợp với tâm tình người Việt Nam.[19] Chủ Nghĩa Nhân Vị được chọn làm kim chỉ nam hướng dẫn công cuộc phát triển quốc gia:
“Nay độc lập quốc gia đã được thực sự vãn hồi. Tuy nhiên nếu đất n­ước được giải phóng mà ng­ười dân trong xã hội Việt Nam vẫn còn sống trong nô lệ thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì hết. Trên thế giới ngày nay, chủ nghĩa duy vật đang gây tác hại lớn lao đến di sản tinh thần của nhiều quốc gia và đe dọa nền văn minh tự do của nhân loại. Trái ngược lại chủ nghĩa Cộng Sản, thay vì lấy con ng­ười làm cứu cánh để phục vụ, lại chủ trương chà đạp nhân phẩm con người, coi con ng­ười chỉ là công cụ của tập thể thì chúng ta quyết tâm xây dựng một quốc gia đặt trên một nền tảng mới: lấy nhân bản làm căn bản, lấy tự do và độc lập làm kim chỉ nam và lấy công bằng xã hội làm tiêu chuẩn.”[20]
Chính Sách phát triển của Chính Quyền Ngô Đình Diệm
Quan niệm “Lấy con ngư­ời làm căn bản và tự do độc lập làm kim chỉ nam và công bằng xã hội làm tiêu chuẩn” đã được áp dụng và biến thành hiện thực qua chính sách “Tài sản Căn bản” của nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam. Các chương trình liên quan đến việc khai thác mở rộng đất đai của Chính Phủ Ngô Đình Diệm đều nhằm thực thi lý tưởng bảo vệ phẩm giá con người của Chủ Nghĩa Nhân Vị: Mỗi người phải có một tài sản căn bản (basic property). Có nghĩa là để phẩm giá của con người được tôn trọng và phát triển, Chính phủ Nhân Vị sẽ tạo cơ hội để mỗi người dân đều có thể làm chủ một tài sản tối thiểu, một mảnh đất, một căn nhà, là những bảo đảm vững chắc của một cuộc sống độc lập tự do thực sự. Trong Thông Điệp Tết 1955, TT Ngô Đình Diệm tái xác nhận nguyên tắc này:
“Mỗi người nông dân không có ruộng cầy, mỗi người dân sống ở thành phố, đều phải được hưởng quyền 'tài sản căn bản'.”[21]
Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã giải thích chính sách “Tài sản căn bản” một cách chi tiết hơn và vai trò tối cần thiết của nó đối với “quan niệm mới về quyền tư hữu”. Quyền tư hữu sẽ cung ứng một căn bản vật chất cần thiết để mọi người có cơ hội hoàn thành sứ mệnh tinh thần (tâm linh) đã được cổ võ trong Chủ Nghĩa Nhân Vị. Quyền sở hữu một căn nhà nằm trên một mảnh đất rộng từ hai sào rưỡi đến bảy sào rưỡi (2.5 - 7.5 acres) có thể sản xuất đủ gạo ăn và hoa mầu cho một gia đình. Đây chính là một bảo đảm chắc chắn về kinh tế cho việc xây dựng tinh thần độc lập của mỗi công dân; ngoài ra nó còn cung ứng đầy đủ nhu yếu cho mỗi công nhân thành phố trong trường hợp họ bị thất nghiệp. Quan niệm này không những nhằm nâng cao năng xuất của từng gia đình mà còn giúp dân chúng dễ dàng thi hành nhiệm vụ đóng thuế đầy đủ và quỹ đầu tư tư­ nhân sẽ được hướng vào chương trình kỹ-nghệ-hóa xứ sở. Ông nói:
“Nếu mỗi người công dân, ngoài công việc làm chính bất cứ trong khu vực công hay tư, mà gia đình họ lại có thêm một lợi tức phụ trội từ “miếng tài sản căn bản đó”, họ có thể nhập chung 2 lợi tức với nhau. Trong trường hợp đó họ sẽ có đủ khả năng để đóng thuế và còn có thể dùng số tiền còn lại tham gia với chính phủ để xây dựng khu vực kỹ nghệ nữa.”[22]
Xin kể ra một vài con số cụ thể làm bằng chứng. Nói chung, sau 4 năm thực hiện chính sách Nhân Vị “tài sản căn bản”, quan niệm về việc xây dựng một xã hội tự túc tự cường tại Miền Nam Việt Nam đã trở thành hiện thực. Vào năm 1956, vẫn còn 6.000 điền chủ làm chủ hơn 45 phần trăm đất ruộng tại Nam Việt Nam và trong số đó có 430 người Pháp và 1603 người Việt mỗi người làm chủ hơn 100 mẩu ruộng (hectares). Nhưng báo cáo trong ngày Song Thất 7-7-1957 cho thấy hơn 26,120 mẫu đã được cấp phát cho nông dân theo nguyên tắc tài sản căn bản”. Ngoài ra còn có 600 trăm ngàn khế ước đã được ký kết giữa điền chủ và tá điền. Để thúc đẩy việc canh tác, chính phủ còn cho nông dân hoặc qua hợp tác xã nông nghiệp mượn một tổng số tiền lên đến 250 chục triệu đồng. Kết quả diện tích canh tác đã tăng lên 2,625,369 mẫu tức 58% so với năm 1954 là 1,659,000 mẫu. Và đến cuối năm 1959 chính phủ đã truất hữu 454,874 mẫu ruộng của 1980 điền chủ để cấp bán cho 128,719 nông dân. Ngoài ra có 228,620 mẫu đất do người Pháp làm chủ đã bị truất hữu trong đó có hơn 50 ngàn mẫu đã được cấp và bán lại cho dân chúng. Chính phủ đã thực hiện khẩu hiệu “Cơm no áo ấm” qua việc nâng cao mức sống của nông dân và gia đình đồng thời gia tăng tổng sản lượng lúa gạo để mau chóng tiến đến tự túc tự cường đã được thực thi khắp miền Nam từ thành thị đến thôn quê. Năm 1959, miền Nam Việt Nam đã thực sự trở thành một xã hội no ấm và số lượng nông phẩm xuất cảng đã đứng đầu trong số các nước Đông Nam Á. Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã đạt được thành quả tốt đẹp này vì khi có được “thời và địa lợi”. Ông Ngô Đình Diệm đã tạo yếu tố “nhân hòa”, từ lãnh đạo đến cơ cấu chính quyền và chính sách phát triển đều lấy “con ngư­ời” làm cứu cánh tối hậu. Lịch sử ghi nhận đây là một chính phủ hợp lòng dân.
Nhưng chính sách “tài sản căn bản” Đệ I Cộng Hoà, đưa con người và xã hội hậu-thuộc-địa Việt Nam tiến đến tự túc tự cường về mọi mặt lại không được các nhà làm chính sách Hoa Kỳ đón nhận. Báo chí và các cơ quan truyền thông Mỹ đã được lệnh mở một chiến dịch đánh phá việc xây dựng quốc sách Ấp Chiến Lược. Họ nhất định phá hỏng nỗ lực tiến đến độc lập tự chủ của các nhà lãnh-đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa vì Ấp Chiến Lược là một hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội hoàn toàn tự túc.[23] Lý do của họ không phải là vô căn cứ. Nếu quốc sách Ấp Chiến Lược được hoàn thành trên toàn lãnh thổ miền Nam, hệ thống thôn ấp này sẽ là một bảo đảm chắc chắn cho Độc Lập và Tự Do căn bản của dân chúng. Người Mỹ sẽ gặp khó khăn khi muốn xen vào nội bộ của Nam Việt Nam.
Ngoài ra, khi cho rằng hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã sai lầm đề cao vai trò của hệ thống làng xã tự trị của Việt Nam trong chính sách bảo vệ độc lập và phát triển dân sinh, chúng ta vô tình đã phủ nhận giá trị văn hóa và lịch sử của sự chọn lựa sáng suốt đầy tự tin này. Trên thế giới này có dân tộc nào bị ngoại bang đô hộ một ngàn năm dài mà vẫn còn tồn tại? Việt Nam đã bị Tầu cai trị cả ngàn năm mà vẫn có khả năng dành lại độc lập cho dân tộc. Tại sao? Vào lúc đó người Tầu sang Việt Nam chỉ có hai mục đích: Một là sang để cai trị và hai là để buôn bán. Hai loại người này đều qui tụ vào những nơi triều đình, thành đô thị trấn. Họ không đá động gì đến hệ thống làng xã tự trị “Phép Vua thua lệ làng” của Việt Nam.
Vào năm 939, khi ông cha ta đánh đuổi Tầu về nước, dành lại được độc lập dân tộc thì dấu vết ngàn năm đô hộ của Tầu chỉ còn sót lại ở triều đình và các nơi thị tứ. Phong tục tập quán truyền thống Việt Nam nằm sau lũy tre xanh của làng xã tự trị vẫn còn y nguyên sau một ngàn năm đô hộ. Tháng Năm 1963,
 Đại Tá Ted Serong, chuyên viên về chiến tranh du kích và là trưởng đoàn huấn luyện của Úc tại Việt Nam đã đánh giá hệ thống ACL như sau: “Câu chuyện thành công lớn trong Chiến Tranh Việt Nam chính là câu chuyện về quốc sách Ấp Chiến Lược và câu chuyện này, vẫn Giáo S­ư sử học Phạm Cao Dương, để lãnh hội những gì Giáo Sư­ chưa nhắc đến một cách đầy đủ[24] và kẻ thù Cộng Sản cũng công khai thừa nhận là việc xây dựng quốc sách Ấp-Chiến-Lược của VNCH trong giai đoạn 1955-1959 là “giai đoạn đen tối nhất của công cuộc chống Mỹ cứu nước và làm cho mục tiêu cách mạng càng lúc càng xa vời”, Tóm lại mục tiêu “nhân bản” của Quốc Sách ACL đã đem lại tự do hạnh phúc cho dân chúng và là cơ cấu nền tảng đưa xã hội miền Nam tiến mạnh và vững chắc đến độc lập tự cường thực sự.
Như vậy, khi lấy con người làm căn bản cho chính sách xây dựng độc lập và chủ quyền quốc gia, Chính Phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ I Cộng Hoà 1955-1963 đã thực hiện được mục tiêu bảo vệ độc lập và chủ quyền thực sự, và làm cho người dân từ thành thị đến thôn quê đ­ược hưởng một cuộc sống ấm no hạnh-phúc và những quyền tự-do căn bản cũng đã được tôn trọng đúng mức. Tinh thần độc lập quốc gia của nền Đệ Nhất Cộng Hòa từ chính trị đến kinh tế xã hội là một điều không thể chối cãi. Nhưng tại sao vẫn không thể giúp cho miền Nam sau này tránh được con đường đi vào lệ thuộc ngoại bang?
Tục ngữ Việt Nam có câu “Bôn ba chẳng qua thời vận”. Thời của miền Nam Việt Nam lúc ấy (1954-1963) là do người tạo ra, là do ông Ngô Đình Diệm tạo ra. Cho nên khi ông Ngô Đình Diệm chết đi, thời của nền Đệ I Cộng Hòa cũng qua đi. Một xã hội độc lập tự do và hạnh phúc cũng biến mất. Miền Nam lại một lần nữa rơi vào vòng lệ thuộc Hoa Kỳ mở đường cho thảm kịch 30 tháng 4 năm 1975.[25]  Cựu Giám Đốc CIA William Colby khi nhìn lại CTVN đã tin rằng lịch sử có thể được viết lại: “Nếu để ông Diệm sống, ông Diệm sẽ có khả năng củng cố và cải tổ quyền lực, sẽ tăng triển chiến lược thôn ấp cùng với những cán bộ từng cộng tác với chế độ của ông.”[26]
Kết-luận
Bây giờ đã có đầy-đủ dữ-kiện để làm một cuộc so sánh giữa hai chế độ, Đệ I Cộng Hòa ở miền Nam và chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc nhằm chứng nghiệm giả thuyết “Có thiên thời, địa lợi nhưng thiếu nhân hòa thì độc lập và chủ quyền quốc gia và các lý tưởng, tự do, hạnh phúc cũng chỉ là những quan niệm vô nghĩa”.
Năm 1954, Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh cũng được Hiệp Định Genève trao cho giải giang sơn từ phía Bắc Vỹ-tuyến 17 đến ải Nam Quan. Họ có được thiên thời và địa lợi giống như­ phe người quốc gia dưới sự lãnh đạo của Ông Ngô Đình Diệm. Khi có được một giang sơn độc lập rồi, ông Hồ Chí Minh và ĐCSVN đã làm gì để bảo vệ giang sơn và phát triển dân sinh? Đầu tiên, họ lập ra một chính phủ và một hiến pháp qui định ĐCSVN được độc quyền cai trị (điều 4). Như vậy mục tiêu tối hậu của ĐCSVN đánh đuổi thực dân Pháp, lấy lại độc lập quốc gia là để nắm chính quyền và thực hiện giấc mơ độc quyền cai trị. Chính quyền độc đảng này đã sử dụng một guồng máy công an cảnh sát và khủng bố để kiểm soát dân chúng và thi hành các chính sách do ĐCSVN đ­ề ra. Tóm lại quyền lực của ĐCSVN mới là mục tiêu tối hậu của cách mạng giành độc lập. Ngược lại trong miền Nam, người quốc gia lấy tự do dân chủ và hạnh phúc của người dân làm nền tảng cho cuộc đấu tranh giành độc lập. Đặc biệt họ thiết lập nên một chính phủ phúc lợi nhằm “hữu sản hóa” để chăm lo hạnh phúc của toàn dân.
Còn chính sách phát triển dân sinh của chính phủ Hồ Chí Minh ra sao? ĐCSVN chủ tr­ương xây dựng một Xã Hội Chủ Nghĩa dựa trên hai giáo điều cơ bản, “Giai cấp đấu tranh” và “Chuyên chính vô sản”. Xin lấy hai định chế kinh tế tiêu biểu trong cuộc cách mạng vô sản làm ví dụ: Cải cách ruộng đất và hợp tác xã sản xuất. Trong cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc sau năm 1954, để xóa bỏ giai cấp địa chủ và tư­ sản và thiết lập một xã hội chuyên chính vô sản, ĐCSVN đã phải tiêu diệt 5% trên tổng số 14 triệu dân và cướp đoạt tất cả tài sản của họ cũng như của những người giầu có ở thành thị.[27] Sau đó tập họp những người vô sản thành đội ngũ, nằm trong hợp-tác-xã sản-xuất. Những người vô sản này sống dưới chế độ bao cấp và làm việc theo chỉ tiêu và hưởng theo nhu cầu. Đây là một lối sống hoàn toàn đi ngược lại văn hóa và tâm tình của ng­ười Việt Nam. Vì thế dưới chế độ độc tài chuyên chế của miền Bắc, ĐCSVN phải dùng guồng máy công an cảnh sát để kiểm soát dân chúng về mặt chính trị và hợp tác xã sản xuất kiểm soát bao tử của người dân vô sản.
Tuy các chính sách của ĐCSVN tập trung vào con người, nhưng con người trong XHCN lại không phải là cứu cánh tối hậu mà chỉ là công cụ sản xuất, phục vụ cho mục tiêu độc quyền cai trị của ĐCSVN. Cho nên chế độ Cộng Sản được mô tả là một chế độ chính trị chủ trương tập thể trên hết, đàn áp tối đa cá nhân để thực hiện ý muốn của “tập thể” và các mục tiêu của Đảng. Nhưng “tập thể” ở đây không phải để ám chỉ đại đa số người dân vô sản mà là thiểu số những đảng viên Cộng Sản. Do đó khi người Cộng Sản gọi chế độ của họ là chế độ “Dân-Chủ', phải hiểu là “Dân Chủ tập trung” (Centralized Democracy), nghĩa là quyền tự do dân chủ chỉ tập trung vào những đảng viên Cộng Sản trong bộ chinh trị trung ương. Trong một chế độ như vậy “tự do và hạnh phúc” là đặc quyền của ĐCS và nói cho chính xác là chỉ có một thiểu số rất nhỏ nằm trong Bộ Chính-trị của ĐCSVN được hưởng trọn vẹn. Đây là lý do tại sao gián điệp CS Phạm Xuân Ẩn đã di chúc “đừng chôn tôi bên cạnh mộ người CS”.
Cái “pia-fraus” hay “mưu-gian đạo-đức” này của người Cộng Sản Việt Nam được GS Nguyễn Văn Canh diễn giải như sau:
“Hai giáo điều cơ bản “giai cấp đấu tranh” và “vô sản chuyên chính” cho phép người Cộng Sản sử dụng bất luận phương tiện xấu xa nào để đạt tới mục đích của họ, nhất là sự dối trá và sự khủng bố: “Cộng-sản chỉ sống được là nhờ nói dối và khủng bố.[28]
Tóm lại, “Tại sao xã hội Việt Nam đến bây giờ vẫn chưa có tự do hạnh phúc?” Bởi vì những chính sách giáo điều của CSVN dều coi con người là phương tiện nên không hợp lòng dân. Xã Hội Việt Nam hiện nay đã có hai yếu tố “thiên thời và địa lợi” nhưng vì còn thiếu yếu tố “nhân hòa” nên khẩu hiệu của ĐCSVN “không gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn chỉ là những quan niệm trống rỗng. Và những thành quả “thần thánh” mà họ đã đạt được trong sự nghiệp “đánh Pháp và chống Mỹ cứu nước” xem ra chỉ dành cho “thánh-thần” chứ chưa giúp gì cho dân tộc Việt Nam trong nửa thế kỷ vừa qua? Ngược lại, nền Đệ I Cộng Hòa với chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam chủ trương tôn trọng phẩm giá con người và tạo mọi điều kiện để con người phát triển đến mức độ cao và rộng nhất. Nên đó là một chế độ hợp lòng dân. Chín năm dưới chế độ Ngô Đình Diệm, đại đa số dân chúng được hưởng độc lập tự do và hạnh phúc thực sự. Cho nên nền Đệ I Cộng Hòa đã qua đi nhưng nó vẫn còn được người dân hoài niệm.[29]
Ngoài ra sự khác biệt căn bản về đời-sống của dân chúng trong hai xã hội miền Nam và miền Bắc còn biện minh cho giả thuyết “Sự hữu hiệu của một cơ cấu phần lớn là tùy thuộc vào con người nằm trong cơ cấu đó.” Con người ở đây là con người “động”, công phu “tu thân” càng cao, mức độ hữu hiệu của cơ cấu sẽ càng nhiều và ngược lại. Đặc biệt con người nằm trong cơ cấu lãnh đạo của nền Đệ I Cộng Hòa là một ví dụ cụ thể. Khi nước ta còn là một thuộc địa của Pháp, Cụ Phan Chu Trinh đã sớm nhận ra đây mới là “chính-đề” của xã-hội-hậu-thuộc-địa Việt Nam:
“Người nước ta thư­ờng tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn với Nhật Bản, thấy họ tiến thì nức nở khen, chứ không khi nào chịu xét vì sao họ được tiến tới như­ thế. Họ chỉ đóng tầu đúc súng mà được giầu mạnh hay họ còn trau dồi đạo đức, sửa đổi luân lý mới được như ngày nay?”[30]
Vai trò của “đạo đức và luân lý” trong công cuộc phát triển quốc gia mà Cụ Phan Chu Trinh đặc biệt nhắc nhở các nhà lãnh đạo Việt Nam giúp chúng ta hiểu thêm tại sao ông Ngô Đình Diệm chủ trương tái trang bị cho con người Việt Nam một tinh thần đạo đức nhằm xây dựng một chế độ dân chủ đạo đức mà theo ông đấy mới là dân chủ thực sự. Nhân ngày giỗ của hai nhân vật độc đáo trong lịch sử cận đại Việt Nam, tôi xin lập lại lời nhắc nhở của Thủ Tướng Đức, Ông Willy Brandt (1913 -1992) gởi đến thế hệ lãnh đạo tương lai như sau:
“Một quốc gia lúc nào cũng cần phải ôn lại lịch sử của mình một cách đứng đắn. Vì chỉ có những ai nhớ được những gì đã ảy ra hôm qua và hiểu những gì đang xây ra bây giờ thì mới có thể đoán biết được những gì sắp sửa xảy ra.”
TS Nguyễn Ngọc Tấn
26-10-2008



[1] Ngô Đình Diệm, 1957, Con Đường Chính nghĩa.Cuốn 3, tr.12.
[2] Năm 1953, Nga Sô đã chính thức trở thành một siêu c­ường nguyên tử lãnh đạo khối Cộng Sàn. Khrushchev đã lên tiếng đe dọa các nước tư bản, Hoa Kỳ và khối Tây âu rằng “we will bury you!” Robert Mcnamara, 1995, In Retrospect , pp.30-32.
[3] S. Karnow, 1984, Vietnam: A History USA: Penguin Books, p.202.
[4] Anthony Eden, 1960, Full Circle, London: Cassell, pp.313-337. Trong Hồi ký của Bảo Đại (tr. 519) ghi lại: “Ngày 12 tháng 7 Đại-sứ Heath (HK) cho tôi biết VN sẽ bị chia đôi. Đến đây tôi mới biết lời tuyên bố ủng hộ lập trường của VN chỉ là tượng trưng mà thôi. Tưởng là đồng minh thân tín vững vàng”. Thật ra Foster Dulles đã cho Mendes France biết kết quả ký kết trước vào ngày 17-6-1954.
[5] Memorandum for H.A. Kissinger, Washington, from Winston Lord. Subject: Memoir of your conversations with Zhou En lai, July 29, 1971. Declassified on Sept. 5, 2001, edited by Wìlliam Burr, May 26, 2006. Reproduced at the National Archive.
[6] Cũng giống như việc hình thành Hiệp Định Genève, VNCH không được bàn thảo gì trong việc thành lập Hiệp Định Paris, chỉ có Hoa Kỳ nói chuyện với Hà Nội mà thôi. Henry Kissinger đã cho Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam biết rằng bất cứ điều đình nào cũng phải là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, không phải giữa Sài Gòn và Hà Nội và phải diễn ra ở Paris.” ĐS Martin nói chuyện với TS Nguyễn Tiến Hưng trong Khi Đồng Minh Tháo Chạy, 2005.
[7] Peter Rodman and William Shawcross, the Defeated's Killing Fields”, New York tim.v, June 7, 20o7. Peter Rodman là Phụ Tá Bí Thư­ Quốc Phòng về các vấn đề an ninh quốc tế từ 2001 đến tháng Ba 2007, là một học giả tại Brookings lnstitution. William Shawcross là tác giả cuốn sách Why the West Had to Remove Saddam? Sol W. Sanders' comment on Obama's “Nixon Reprise” by Bret Stephens in Global View. July 8, 2008, p. A 19: He is a little gullible about what Nixon/Kissinger intended, there is Kissinger's famous “Decent lnterval”. They had brought in to the Harriman line on how abandonment of Saigon would improve the “Soviet - US détente” Just as Kissinger & Nixon had sold themselves the too-clever by half idea that the could use China against the Soviet Union. The cutofflogistics for RVN began with the Nixon/Kissinger years with their tacit approval or at least their refusal to use their influence with the congress. Hồi Ký của CLA Andrew Truly cho biết HK rất bực bội về ảnh hưởng của Nga tại Cuba và Guatemala nên khi Harriman thất bại với giải-pháp chung sống hòa bình của Krushchev” vì Kennedy bị ám sát, phe Cộng Hòa đà tiếp nối chiến lược tái lập bang giao với Trung Cộng. Sau trận Triều Tiên, ngày 24-4-1951 McArthur bị tước hết quyền chỉ huy vì có ý định tấn công Trung Cộng bằng hải và không quân. Sau này HK cũng không giúp Pháp đánh Tầu tại Điện Biên Phủ. (A. Truly, tr.235)
[8] Chính vì thế Bộ-tr­ưởng Quốc-phòng Hoa Kỳ thời TT Kennedy gọi chiến tranh Việt Nam là một “surrogate”. Nó có nghĩa là dùng CTVN để thay vào cuộc chiến tranh có thể xảy ra ở Tây Âu: Đó là chính sách của A. Harnman, “Bỏ Nam Việt Nam sẽ làm cho quan hệ Nga Mỹ tốt đẹp hơn.”
[9] Hồi-ký của G. Bidault ghi lại lời tuyên bố của TT Eisenhower rằng “ông không muốn Hoa Kỳ bị lôi cuốn vào Đông Dương và không đụng độ với Trung Cộng.” Eisenhower đã hứa giúp Pháp 3 trái bom nguyên tử để giải quyết trận Điện Biên Phủ (Kế Hoạch Ó Đen: Dùng không lực và Đệ Thất Hạm Đội Tấn Công VMCS của tướng Radford) nhưng khi Cộng Sản xuất hiện thì Bidault được thông báo là Mỹ chỉ can thiệp khi được Quốc Hội và đồng minh (Anh) chấp thuận. R. McNamara, sđd, tr.39. Chính Tổng Thống Kennedy đã từng công khai tuyên bố trước báo chí vào ngày 15-11-1963: “Hoa Kỳ không muốn gởi quân đến đó (Nam Việt Nam). Ngày 2-10-1963, ông tuyên bố quyết định rút các cố vấn huấn luyện ra khỏi Việt Nam bắt đầu từ 31 tháng 12 năm 1963 và công việc huấn luyện sẽ chấm dứt vào năm 1965.
[10] Trần Đại Hải, “Ai là chủ nhân của nước Mỹ”, Việt Luận, Giai Phẩm Xuân Mậu Tý 2008, tr. 153-155. Trong bài nghiên cứu rất súc tích về hệ thống quyền lực, ông Hải đã so sánh giai cấp cai trị Mỹ giống như­ một Board of Directors và Tổng Thống Mỹ chỉ là một CEO do họ chọn ra để đứng mũi chịu sào. Khi cần thì giữ, khi không cần thì sa thải hoặc trừ khử. Giai cấp thống trị nằm trong các đại công ty, với 2 mục tiêu duy nhất: lợi nhuận và quyền lực. Để phục vụ cho hai mục tiêu này, họ giao phó vấn đề an sinh xã hội cho các tổ chức từ thiện, tuyển dụng nhân tài từ tiếu đến đại học, điều khiển cơ quan truyền thông để tác động chính sách và cử tri, chọn ng­ười điều hành (các chức vụ từ tổng thống trở xuống). Những cơ chế họ dựng lên như Council of Foreign Relations (CFR) thành lập từ 1919 chuyên lo về đối ngoại như kế-hoạch Marshal, NATO, WB, LMF (James Baker, PTT Cheney); “Trilateral Commission” do David Rockfeller dựng lên (1973), nhóm này khởi xướng quan điểm hợp tác giữa 3 giai cấp thống trị thuộc Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản; Committee for Economic Development và các Foundations. Các viện nghiên cứu như Brooking lnstitution, Urban lnstitute, National Bureau of Economic Research, Resources for the Future, các Think Tank như RAND, Corporation, Đại Học Havard, MLT, và Georgetown . . .
[11] (“Diem must go”). Sau này khi VNCH bắt đầu di tản khỏi Đà Nẵng, Kissinger đã bực bội nguyền rủa “Sao chúng (VNCH) không chết phứt đi cho rồi”. ông ngụ ý tại sao VNCH không chịu đầu hàng, để giải pháp chính trị của ông về CTVN sớm được thực thi.
[12] Phan Bội Châu, Khổng Học Đăng, tr.32.
[13] M. Moyar, 2006, Opcit., p.31. Powerful non-communist groups in South Vietnam were not prepared to take orders from the newly formed central government, whereas in the North the central government's political rivals were relatively weak. The North Vietnamese needed time merely to recuperate and consolidate, while the South Vietnamese needed time to build a cohesỉve state with materials and tools that were far from ideal. Possessing a massive head start against a staggering opponent, the North Vietnamese had good reason to hope for a quick and easy victory in the looming confrontation with the Vietnamese anti-communists.
[14] Ngô Đình Diệm, 1955, Con đ­ường Chính-nghĩa, Q. 2, tr. 157.
[15] Bùi-Tín, “Một Cái Nhìn Từ Hà-Nội”, bài viết này được chính ông Bùi Tín đọc trong buổi hội thảo “Về Ngô Đình Diệm”, được tổ chức tại Đại Học Texas Tech University, ngày 24 tháng 10 năm 2003.
[16] Phỏng vấn Cụ Cao Xuân Vỹ, người hiện diện bên cạnh ông Diệm lúc ông C. Lodge điện thoại. Tháng 4, 1996 tại Long Beach California.
[17] Dr H. A. Kissinger, 2005. Ending the War.
[18] Chuyên-viên nghiên-cứu về Đông Nam Á thuộc Đại-học University of Califorma gọi Chủ Nghĩa Nhân Vị là “the middle hay between totalitananism anh excessively individualistic liberalism.” “Personalism in Vietnam”, Pacịfic ạffairs, Vol.32, no l,March 1959.
[19] Trong thời chiến tranh Việt-nam, Chủ-nghĩa Nhân-vị đã bị xuyên tạc là của Mounier với những giá-trị của Công-giáo ở Pháp. Thật ra các gía-trị nhân-bản và lý-tưởng tâm-linh Thái-Hòa nền tảng của Nhân-vị là từ Việt- Nho đã được Khổng-Tử đem ra giảng-dạy khoảng 500 năm trước khi Đức Chúa Giê-Su sinh ra và rao giảng các giá-trị nhân bản Công-giáo. Không ai bắt chước ai cả! J. Donnell cũng đã vạch rõ sự khác biệt giữa Personalism của Pháp và của Việt-nam cả về chủ-thuyết lẫn ứng dụng: Nhân-vị của Mounier chỉ là một nhận-định một quan-điểm về một cuộc-sống mà ông cho là thích hợp hơn. Trong khi Nhân-vị của anh em ông Diệm lại là một hệ-thống các giải-pháp cho các vấn-đề xã-hội. [Mounier's personalỉsm is a perspective and a challenged view oflife. Whereas Nhu’s­ personalism is a set of specific answers to social questions. (Pacific Affair, 1959)
[20] Ngô-Đình-Diệm, 1955, Con-Đường Chính-Nghĩa, q. 1, tr.32.
[21] Thông Điệp Tổng Thống: Tết 1955, Việt-Tấn-Xã, Weekly English Series (WES), Số 71, 15-2-1959, tr2-3 .
[22] Ngô-Đình-Nhu, “Tại sao chúng ta phải bảo-vệ chế-độ hiện nay.” Nói chuyện tại Bộ-thông-tin ở Sài-gòn ngày 15-11-1957.
[23] Cụ Cao Xuân Vỹ nói, “Ông Diệm rất quan tâm đến một ngày nào đó Mỹ sẽ bỏ Việt Nam, lúc đó ta chỉ còn biết trông cậy vào cái hệ thống tự túc tự cường này mà thôi. Đó chính là Ấp Chiến Lược.” Mạn đàm với cụ Cao Xuân Vỹ.
[24] Ted Serong in M. Moyar 2006, Opcit., p.207.
[25] TS Nguyễn Tiến Hưng, 2005, sđd.
[26] Wilham Colby trả lời cuộc phỏng vấn tại Phi Trường Seatac (Seattle) vào hôm Chủ Nhật cuối tháng 11, 1995. Đăng lại trong Việt-Luận,(Sydney) số 1049, 12-12-1995 .
[27] TS Nguyễn Văn Canh, 2002. Cộng-sản Trên Đất Việt, Q. 1, CA., Kiến Quốc, tr. 315
[28] TS Nguyễn Văn Canh, 2002, sđd., tr.5.
[29] Trần Viết Đại Hưng, “Bao Giờ Cho Đến . . . Ngàn Xưa”. Việt-Luận. Sydney, số 2107, 29-9-2006, tr.54 và 90. ông viết: “Có sống trong thời cộng-sản cai-trị khắt khe độc-đoán, người dân mới thấy thời xa xưa tiền cộng-sản là một thời dễ thở, sung túc, cho dù là thời Pháp đô-hộ thì vẫn còn hơn xa cái chế-độ sắt máu Cộng-sản. Thời tiền cộng sản hơn xa thời cộng sản cả về mặt tinh thần lẫn vật-chất.”
[30] Phan Chu Trinh, 1925, Đạo-Đức và Luân Lý Đông Tây.

Friday, October 2, 2009

Chính Đề Việt Nam by Ngô Đình Nhu and his group

http://www.fileden.com/files/2007/12/16/1647029/ChinhDeVN_NDN.doc
Những suy nghĩ của những con người kiệt xuất.
Đọc và thấy họ đúng là những người kiệt xuất và có một tấm lòng với dân tộc, thấy được cách hành xử chính trực của họ trước các thế lực thù địch với chính họ.

Click để tải xuống

ChinhDeVN_NDN.doc

Chuyện Nội Bộ (tập 2)

Cái từ "nội bộ" là mình nghe rổn rảng, nghe "hoành cháng", nghe liên tu bất tận luôn kể từ ngày mình được giải phóng khỏi toàn bộ những gì mình yêu quí.

Và mình cũng đã có nêu lên một chút suy tư về cái chuyện nội bộ đó bằng một entry tí hon.

Thật thú vị và bất ngờ, bây giờ lại được nghe cái chữ "nội bộ" đó, mà lại là nghe từ phía không phải là quê hương yêu dấu của mình. Nhưng mà nghe xong mới đỏ mặt, xấu hổ cho cái quê hương của mình đó, với người đại diện của nó, ngu khờ vênh váo trước mặt người khác để đến nỗi bị chửi. Ôi nhục quá. Nhục quá. Có phải là mình cứ phải bị nhục mỗi khi cái tình tự "thân phận làm người Việt Nam" nó nổi lên trong tâm tư tình cảm của mình.

Phận Giòi.

==============
Đây là cái thư của Người Mỹ mắng Người Việt.


Ngày 23-2-2004

Thưa Ông Đại Sứ (CHXHCN Việt Nam),

Tôi vừa nhận được một bản sao của thư ông gửi đến Nghị Sĩ Pam Roach đề ngày 10-2-2004. Tôi xin trả lời thư đó.

Nếu bất cứ một nước nào khác viết bức thư này, thì sẽ đơn thuần một chuyện buồn cười. Nhưng đây lại là của nước ông, Ông Đại Sứ, nước Cộng sản Việt Nam . Nước ông chưa bao giờ tôn trọng hoặc thành thật tuân theo những thủ tục và quy định của bất cứ một thỏa hiệp quốc tế nào mà nước ông đã ký kết vào. Tuy nhiên, nước ông sẽ chỉ núp đằng sau các Thỏa hiệp ấy khi nào chúng thích hợp cho quyền lợi của nước ông. Khi có những cá nhân, chẳng hạn như bản thân tôi hoặc Ông M. Benge, hoặc các tổ chức như Ân Xá Quốc Tế, Ủy Ban Tự Do, Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, cáo buộc quý quốc với vô số hành động vi phạm nhân quyền hoặc tổn hại, thì lập tức quý quốc đáp lại bằng cách nói rằng những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm tới là những vấn đề nội bộ và rằng chúng tôi đã can thiệp vào chính sách của quý quốc. Thế cũng được. Ở đây, với quá trình được sắp đặt, chính ông đang can thiệp vào Tiểu bang Washington về những vấn đề không liên quan gì đến ông cả. Sao mà chúng tôi vinh danh sự đóng góp của các cá nhân hoặc các cộng đồng dân tộc ở đây tại Washington lại là ăn nhập đến ông. Xin hãy từ bỏ hành động can thiệp vào những vấn đề nội bộ của chúng tôi.

Ông muốn chúng tôi công nhận và vinh danh lá cờ của ông. Lá cờ đại diện cho một quốc gia đã thực hiện những cuộc tàn sát diệt chủng, huynh đệ tương tàn và buôn bán nô lệ quốc tế. Tôi, với tư cách một cư dân của tiểu bang Washington , không thể nào tha thứ hành động ấy. Sao ông dám đòi hỏi tôi làm? Làm như thế sẽ đưa tôi đến sự đồng lõa với những tội ác lớn lao chống nhân loại của nước ông.

Ông nói rằng dự án Đài Tưởng Niệm phủ định sự tồn tại của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam . Nó chẳng làm được việc nào như thế đâu. Đối lại với các bảo tàng viện và đài tưởng niệm của nước ông, Đài Tưởng Niệm này bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với những người đã trả cái giá cao nhất cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền trong nước Việt Nam Cộng Hòa cũ. Ngọn cờ của Việt Nam Cộng Hòa từ đó được công nhận như là ngọn cờ của tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền trên khắp thế giới. Các màu sắc của nó thật là tiêu biểu. Ba sọc đỏ tượng trưng cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Trong lúc màu vàng nói lên sự quý giá biết bao của những lý tưởng ấy, màu đỏ tượng trưng cho sự đổ máu để bảo vệ những lý tưởng đó. Cả trong quá khứ và cả đối với những người sẽ bảo vệ những lý tưởng ấy cho đến chết. Tôi, trước hết, hân hạnh công nhận lá cờ Tự Do và tỏ lòng vinh danh nó. Tôi cũng sẽ hân hạnh công nhận lá cờ của ông khi ông công nhận lá cờ của chúng tôi. Trước khi ấy, đối với tôi, lá cờ của ông tượng trưng cho giết hại, khủng bố, ngược đãi, tráo trở, buôn bán nô lệ và vi phạm nhân quyền.

Ông tuyên bố rằng ông đang cực kỳ nỗ lực để đẩy lùi quá khứ. Vâng, với nước của ông, hồ sơ quá khứ là sự xâm phạm tất cả các tiêu chuẩn của hành động văn minh, nên tôi hoàn toàn hiểu được mong muốn đẩy lùi quá khứ của ông. Sau hết, mục đích về sự thừa nhận của ông chỉ bị tổn thương bởi những hành động quá khứ của nước ông.

Tất cả các cư dân của tiểu bang Washington sẽ cảm thấy sung sướng hơn để mở bàn tay thân hữu và hợp tác khi nước ông có đầy đủ Tự Do, Dân Chủ và mở rộng Nhân Quyền cho tất cả người dân Việt Nam. Trước khi đó, xin hãy tránh khỏi công việc nội bộ của chúng tôi.

Dự án Đài Tưởng Niệm không phải là một lời tuyên bố của chính sách ngoại giao. Nơi mà ông lấy ra cái ý tưởng đó ngoài phạm vi của tôi. Một lần nữa, ông lại cố gắng làm mờ tối vấn đề. Những gì mà nhân dân Mỹ làm không mắc mớ gì tới ông. Đây là một vấn đề nội bộ của tiểu bang Washington do những công dân bình thường vinh danh những người đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, là những lý tưởng đáng nguyền rủa đối với chính phủ chuyên chính bạo ngược của ông. Đó là những lý tưởng mà lá cờ nền vàng với ba sọc đỏ đã tượng trưng.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn kỹ vào những gì mà nước ông đã làm và đang tiếp tục làm.

Cộng sản Việt Nam đã tham gia vào hành động diệt chủng. Nó đã chính thức bắt đầu suốt trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai. Chính nước ông đã tuyên chiến Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai. Theo định nghĩa lúc bấy giờ, đó là một cuộc chiến tranh. Như vậy, nước ông bị ràng buộc bởi những Quy Ước Genève về cách đối xử với Tù binh chiến tranh. Thế nhưng, như tôi đã nói trước đây, nước ông chưa đủ thành thật và tôn trọng đối với những nguyên tắc căn bản của bất cứ một hiệp định quốc tế nào mà nước ông đã ký vào.

Sự đối xử với tù binh chiến tranh của các ông đã chứng minh cho điều đó. Ngoài ra, các ông đã hành quyết ít nhất là 11 tù binh Hoa Kỳ đang bị các ông giam giữ. Đó là một tội phạm chiến tranh và diệt chủng. Cho đến ngày nay, các ông vẫn cố tình phạm tội diệt chủng. Hãy lấy trường hợp của Lý Tống, một người Mỹ gốc Việt. Các ông đã tìm cách can thiệp vào tòa án và luật pháp của Thái-Lan và yêu cầu Thái-Lan hãy hành quyết Lý Tống.. Tội danh của ông ta là gì? Nói cho dân Việt Nam về Tự Do là một trường hợp mà các ông không thể nào tha thứ được.

Cộng sản Việt Nam đã tham gia và tiếp tục tham gia vào cuộc huynh đệ tương tàn. Việc này đã khởi đầu vào năm 1956 khi chế độ Cộng sản tại Hà Nội phát động chương trình Cải Cách Ruộng Đất. Trong lúc có thể dễ dàng trút trách nhiệm lên kẻ khích động của Cộng sản Quốc tế là Hồ Chí Minh, thì kiến trúc sư thực sự là Trường Chinh. Đã có bao nhiêu người Việt Nam chết dưới cuộc tàn sát này? 10,000? - 50,000? - 100,000? Nhiều hơn? Ngay cả chỉ có một nạn nhân của cuộc tàn sát này, cũng đã tạo nên cảnh tương tàn huynh đệ rồi. Cuộc tàn sát nhắm vào người thiểu số Việt Nam tại miền Tây Bắc Việt Nam cũng cùng một loại (với cải cách ruộng đất). Mục đích của cuộc tàn sát này là xóa sạch chủng tộc số người Việt Nam thiểu số đã giúp cho người Pháp. Tôi nhắc đến điều này là để chứng minh rằng các ông đã tiếp tục chính sách này sau khi kết thúc Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai với sự bắt đầu chính sách cưỡng bách tái định cư những người Việt Nam đã cộng tác với Việt Nam Cộng Hòa cũ tại những vùng mà các ông thản nhiên gọi là Vùng Kinh Tế Mới. Các ông tiếp tục chính sách diệt chủng hiện nay dưới dạng ngược đãi và khủng bố tôn giáo, nó cũng là một bằng chứng hiển nhiên về vi phạm nhân quyền. Bất cứ một người nào bị giết hại trong cuộc tàn sát này cũng là nạn nhân của chính sách diệt chủng và tương tàn của nước ông.

Hãy nhìn vào sự gắn bó của nước ông trong hành động buôn bán nô lệ. Nhiều lần trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ hai và cả sau đó, nước ông bán người Mỹ, bán đồng minh và tù binh Việt Nam qua nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô-Viết. Một bằng chứng, năm 1983, nước ông bán 275 người Mỹ và 27,000 tù binh Việt Nam qua Liên-xô để trừ nợ đã vay trong chiến tranh. Đây là một vi phạm quá trọng đại đối với nhân quyền và là một tội ác chống nhân loại. Đã có nhiều lần nước ông bán người Mỹ, đồng minh và tù binh Việt Nam qua Liên-Xô, nhưng mỗi một lần số lượng không nhiều lắm.

Nước ông có thể giải quyết nhiều trường hợp Tù Binh/Người Mất Tích Trong khi làm nhiệm vụ một cách dễ dàng bằng cách mở các hồ sơ quân đội và Công an của nước ông. Nhưng nước ông đã không làm chỉ vì không có lợi lộc gì trong việc giải quyết nhân đạo vấn đề tình cảm này. Nước ông tống tiền nước Mỹ cho lợi nhuận riêng và hưởng thụ. Tại sao? Bởi vì nước ông nhận thấy rằng Tổng Thống Nixon đã hứa viện trợ tái thiết cho nước ông khoảng 4 tỷ 3 đô-la. Điều này có thể xảy ra, nước ông có thể nhận được số tiền này một cách dễ dàng, nếu chịu công bố hồ sơ và danh sách tù binh của nước ông cho các gia đình và cho thế giới. Ít ra việc này cũng có thể làm giảm nhẹ một phần nào trong số tội ác của nước ông.

Rồi thì ông dám trơ tráo đòi hỏi rằng người Mỹ đừng can thiệp vào công việc nội bộ của ông và đòi vinh danh lá cờ của nước ông. Với hồ sơ của nước ông, lẽ ra ông nên vui mừng là đã không bị đưa ra xét xử bởi một Tòa án Quốc Tế về những tội ác chống nhân loại mà nước ông đã phạm.

Vậy thì, xin đừng can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chúng tôi trong việc vinh danh những người đã chết vì Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Xin đừng xen vào để xem làm sao chúng tôi vinh danh những công dân đã đóng góp vào sự an sinh và no ấm của Tiểu bang chúng tôi.

Terrell A. Minarcin

Concerned Citizen for Freedom, Democracy, and Human Rights for Vietnam

...sự tiếp tục trụ đóng (bám víu, lấy làm nền tảng phát triển) vào lý thuyết Cộng Sản sẽ không làm sao giải quyết được công cuộc phát triển cho dân tộc, mà lại còn mở cửa đưa các thế hệ sau này, vào một đời sống vô cùng đen tối không lối thoát. (NĐN, 1963)

Thursday, October 1, 2009

Chính Đề Việt Nam (Phần Kết)

KẾT LUẬN

TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ

Phật dạy “TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ”. Thâm ý cao siêu của lời dạy trên bao trùm khắp vũ trụ. Sự tiến hóa của nhân loại đều căn cứ trên nguyên tắc nằm trong lời dạy trên. Có trụ mới có vị trí để mà tiến. Nhưng khi vị trí đã mất tác dụng, mà vẫn cứ cố bám để trụ vào đó thì mọi tiến hóa lại chấm dứt, và những kết quả đã thu hoạch được lại có thể bị mất.

Phải trụ vào cho đúng lúc mới tiến được. Và phải không trụ vào cho đúng lúc mới bảo đảm được vừa những thắng lợi đã chiếm, vừa con đường tiến cho tương lai.

TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ là một chân lý thể hiện trong những sự việc vĩ đại của loài người, cũng như trong các sự việc nhỏ nhặt của cá nhân trong đời sống thường ngày.

Nhiều cộng đồng đã phôi thai được một nền văn minh vì nhờ trong một lúc nào đó, các nhà lãnh đạo đã ý thức được một cách sung mãn những vị trí cần phải trụ vào. Nhưng sau đó hoặc vì sự thiếu lãnh đạo, hoặc vì thử thách, do hoàn cảnh bên ngoài đưa đến, vượt qua mức độ mà sinh lực của cộng đồng có thể ứng phó nổi, nên cộng đồng vẫn tiếp tục trụ vào một vị trí không còn là sinh lộ nữa. Do đó, nền văn minh vừa mới phôi thai, đã ngừng phát triển và lâu ngày thành cằn cỗi và chết dần như cây khô.

Các dân tộc Da Đỏ ở Bắc Mỹ đã phôi thai một nền văn minh trụ vào sự thích nghi hóa đời sống thường ngày với vũ trụ thiên nhiên bao quanh mình. Ví dụ, thay vì tìm cách chế áo dầy hoặc cách xây nhà cửa giữ được sức nóng để chống lại với giá lạnh của mùa Đông, người Da Đỏ lại chủ trương huấn luyện cơ thể từ lúc nhỏ để chịu đựng được các thời tiết.

Thái độ của người Da Đỏ là một thái độ tùng phục, cố gắng thích nghi hóa cơ thể với vũ trụ thiên nhiên. Thái độ mặc áo và xây nhà là một thái độ dùng phương tiện thiên nhiên để chế ngự thiên nhiên.

Vì đã lựa chọn con đường như vậy cho nên nền văn minh phôi thai của người Da Đỏ đã đào tạo được một loại người mà sức chịu đựng đối với thiên nhiên lên đến một mức độ phi thường. Và sự thông cảm của họ với thiên nhiên vượt đến một trình độ ít có.

Trên lĩnh vực này, người Da Đỏ đã khiến tất cả mọi người đều thán phục. Và người mà ông Baden Powell, nhà sáng lập ra phong trào hướng đạo thế giới, lấy làm mẫu là người Da Đỏ.

Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người có giới hạn, sức mạnh của thiên nhiên lại vô bờ bến. Tự trụ mình vào công cuộc phi thường rèn luyện cơ thể để chống lại với thiên nhiên, người Da Đỏ đã dấn thân vào một con đường không có lối thoát.

Các nhà lãnh đạo Da Đỏ không nhìn thấy sự bế tắc đó nên không lúc nào nghĩ cần phải chấm dứt sự trụ vào đó. Vì vậy cho nên, vừa mới phôi thai, nền văn minh Da Đỏ đã ngưng phát triển và lần lần cằn cỗi.

Theo những tài liệu khảo cổ mà chúng ta được biết tới ngày nay thì các dân tộc ở chung quanh Bắc cực và các dân tộc ở trên các quần đảo ở Thái Bình Dương đều lâm vào một tình trạng tương tự. Tự trụ vào công cuộc mang sức chịu đựng của con người để chống lại thiên nhiên. Lúc đầu khi trụ vào vị trí đó, cộng đồng phôi thai được một nền văn minh. Nhưng khi vị trí không còn thích nghi nữa, cộng đồng không biết thoát ra đúng lúc. Lỗi lầm đó đã đưa cộng đồng đến chỗ chết.

Ví dụ dưới đậy lại còn rõ rệt hơn nữa.

Luân lý Khổng Mạnh đã tạo cho cộng đồng dân tộc Trung Hoa, một trật tự xã hội bền vững với thời gian, một cách chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Suốt trong mấy ngàn năm, trật tự xã hội kiên cố, do luân lý Khổng Mạnh tạo nên, không có cuộc chấn động nào lay chuyển nổi. Nhờ trật tự xã hội vô cùng vững chắc đó, văn minh Trung Hoa phát triển đến tột độ và soi sáng khắp cả một bầu trời. Các triều đại Trung Hoa, kể cả các triều đại Hán tộc và các triều đại ngoại lai, Mông Cổ và Mãn Thanh, đều bị chinh phục bởi sức kiên cố của trật tự xã hội của Khổng Mạnh. Các nhà lãnh đạo đều trụ vào đó và gia công xây đắp cho trật tự Khổng Mạnh càng thêm vững chắc.

Vì vậy mà cho đến khi nền văn minh Trung Hoa, vì quá trụ vào trật tự xã hội Khổng Mạnh, nên sinh lực phát triển đã suy đi, không một nhà lãnh đạo nào nhìn thấy. Mài miệt trong sự thán phục một trật tự xã hội đã cằn cỗi và thành đá, không một nhà lãnh đạo nào nhìn thấy nền văn minh Trung Hoa đã ngưng phát triển. Nếu không bị sự tấn công của Tây phương, có lẽ đến ngày nay, Trung Hoa còn ngon giấc triền miên trong cái trật tự xã hội Khổng Mạnh của mình. Trụ vào trật tự xã hội Khổng Mạnh để phát triển nền văn minh. Nhưng chính cũng vì trụ vào đó quá mức độ thời gian, nên văn minh đã ngưng phát triển.

Thâm ý của lởi Phật dạy “Trụ mà không trụ” là bao quát như vậy đó.

Nhưng trong đời sống của cá nhân, lời dạy “trụ mà không trụ” cũng chi phối sâu xa đến các hành vi thông thường.

Trong sách Gia Ngữ có chép lại đại khái như sau:

Thầy Tử Hạ một hôm hỏi Đức Khổng Tử: “Đức Khổng Tử sánh với những người học trò như Nhan Hồi, Tử Cống và Tử Lộ thì sao?”

Đức Khổng Tử trả lời: “Nhan Hồi thủ tín hơn ta. Tử Cống thuyết khách hơn ta. Tử Lộ chiến trận hơn ta.”

Thầy Tử Hạ lại hỏi: “Thế vì sao Nhan Hồi, Tử Cống và Tử Lộ lại tôn Đức Khổng Tử làm thầy?”

Đức Khổng Tử trả lời: “Vì Nhan Hồi thủ tín mà không biết phản tín. Tử Cống hay biện thuyết mà bất cập tảo biện. Tử Lộ biết dũng mà không biết khiếp, biết cương mà không biết nhu.”

Thầy Nhan Hồi biết trụ vào chữ tín mà không biết không trụ vào chữ tín.

Thầy Tử Cống biết trụ vào biện thuyết mà không biết không trụ vào biện thuyết.

Thầy Tử Lộ biết trụ vào dũng mà không biết không trụ vào dũng.

Đức Khổng Tử vượt lên trên hết tất cả vì trong mọi trường hợp, ngài biết trụ vào đúng lúc và biết không trụ vào đúng lúc.

Phải biết trụ để có vị trí phát triển, nhưng phải biết không trụ để bảo đảm cho phát triển tiếp tục.

Sự phát triển của văn minh Tây phương đến mức độ bao trùm khắp nhân loại và khắp các lĩnh vực của đời sống, như chúng ta mục kích ngày nay, là một sự kiện chưa tìm có trong lịch sử nhân loại. Sinh lực đó bắt nguồn từ chỗ người Tây phương đã thấu triệt nguyên tắc “Trụ mà không trụ” và đã đưa nó lên thành một lợi khí khoa học và sắc bén để tìm hiểu vũ trụ. Trong bất cứ ngành nào của kỹ thuật Tây phương, lịch sử phát triển của ngành đó đều mang dấu vết của nguyên tắc “Trụ mà không trụ”. Ví dụ dưới đây là thông thường nhất.

Khi quang học mới phôi thai, tất cả các nhà vật lý học Tây phương lúc bấy giờ, Descartes, Fermat, Malus, Huygens đều trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng” để khảo sát, thí nghiệm và tìm ra những định luật của quang học hình học. Quang học hình học, như chúng ta đã biết, là những bậc thang đầu tiên và vô cùng quan trọng của quang học.

Nhưng, những thế hệ các nhà vật lý học sau đó, mục kích nhiều hiện tượng quang học mà thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng” không làm sao giải thích được. Fresnel, Young và Newton, mặc dầu vẫn công nhận sự nghiệp di sản của quang học hình học, đã nhìn thấy đúng lúc giới hạn của thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng” và nhận thức đã đến lúc không nên trụ vào đó nữa.

Nếu không trụ vào đó nữa, tất nhiên phải trụ vào một vị trí khác để tiếp tục phát triển Quang học. Do đó, thế hệ các nhà quang học này trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang theo làn sóng” để khảo cứu thí nghiệm và cuối cùng phát minh những định luật mới về quang học vừa bao quát, vừa phong phú hơn. Tất cả sự nghiệp quang học ba động đều xây dựng trên thuyết mới này.

Giả sử thế hệ các nhà vật lý học đầu tiên không trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng” thì sự nghiệp quang học hình học không bao giờ thành hình, và những bậc thang đầu tiên đó của ngành quang học, không bao giờ được xây dựng lên và sự phát triển của quang học không được manh nha.

Nhờ những bậc thang đầu tiên đó, thế hệ các nhà vật lý học sau mới vói tay lên được đến các hiện tượng lạ lùng đối với thuyết “ánh sáng phát quang theo đường thẳng”. Nhưng, giả sử các nhà vật lý học của thế hệ này không đập phá được sự trụ vào thuyết “đường thẳng” thì sự phát triển của quang học đã ngừng ở đó và lâu ngày sẽ cằn cỗi mà chết dần.

Nhưng trong thực tế, họ đã biết không trụ đúng lúc nên đã bảo đảm được sự tiếp tục phát triển của quang học.

Đến giai đoạn này, lịch sử phát triển của quang học cũng đủ để thuyết minh cho tính cách sắc bén của nguyên tắc “Trụ mà không trụ”, trong mọi lĩnh vực phát triển.

Nhưng, quang học còn phát triển hơn nữa. Và thành tích phát triển gần đây của quang học, lại chỉ rõ hơn nữa rằng, văn minh Tây phương đã khoa học hóa và chính xác hóa nguyên tắc “Trụ mà không trụ” để biến nó thành một kỹ thuật vô cùng hiệu quả để phát triển.

Sau thế hệ các nhà quang học ba động, một thế hệ vật lý học giả khác lại phát minh ra nhiều hiện tượng vật lý, mà thuyết “ánh sáng phát quang theo làn sóng” cũng không thể giải thích được. Cũng như lần trước, các nhà quang học chấm dứt đúng lúc sự trụ vào quang học ba động. Nhưng lần này, các nhà quang học đã xem việc không nên trụ vào quang học ba động, như là một phương pháp phát minh. Thế hệ của De Broglie lại trụ vào thuyết “ánh sáng phát quang thành ly tử di chuyển theo làn sóng” để khảo sát, thí nghiệm và phát minh nhiều định luật về quang học bao quát hơn thêm và phong phú hơn thêm. Tất cả sự nghiệp quang học xạ tử ba động đều xây dựng trên thuyết mới này. Và những phát minh tối tân nhất hiện nay về các quang tuyến đều căn cứ trên sự nghiệp quang học xạ tử ba động.

Nhưng sự nghiệp xạ tử ba động sẽ không bao giờ có, nếu sự nghiệp quang học ba động không thành hình. Và sự nghiệp ba động không bao giờ có nếu sự nghiệp quang học hình học không thành hình. Nhờ trụ mà có quang học hình học. Rồi nhờ không trụ mà có quang học phát triển. Rồi nhờ trụ mà quang học ba động thành hình. Rồi nhờ không trụ mà quang học ba động phát triển. Rồi nhờ trụ mà quang học xạ tử ba động thành hình.

Chúng ta có thể đoán rằng, cơ thức “Trụ mà không trụ” sẽ theo đó mà tiếp tục diễn tiến, và vạch con đường cho sự phát triển không ngừng của quang học.

Những sự kiện trên có giá trị, không phải riêng cho lĩnh vực quang học mà cho tất cả các ngành của khoa học Tây phương.

Những sự kiện trên có giá trị, không phải riêng cho lĩnh vực khoa học mà cho tất cả các ngành của khoa học Tây phương, nghĩa là cho tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh vực chính trị như chúng ta sẽ thấy dưới đây.

Tóm lại “Trụ mà không trụ” là một chân lý phát triển. Một điều đáng cho chúng ta nêu lên làm một câu hỏi, là chính Đông Phương đã tìm ra chân lý trên, nhưng vì sao văn minh Đông Phương, Ấn Độ, cũng như Trung Hoa, lại trụ vào một vị trí cố định từ mấy ngàn năm? Những trả lời câu hỏi này vượt ra rất xa khuôn khổ của lời kết luận này.

Trở lại vấn đề chính trị của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hiện tại, đề tài của tập sách này, chúng ta nhận thấy các điểm sau đây:

Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề của dân tộc Việt Nam, trong thời kỳ này chỉ có thể tìm được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí dân tộc.

Đương nhiên là vị trí dân tộc mà chúng ta đã quan niệm trong suốt mấy trăm trang của tập sách này, không thể là một vị trí dân tộc bế quan tỏa cảng, hẹp và nông như dưới các triều đại quân chủ xưa kia. Vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với tất cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có.

Nhưng vị trí trụ vào phải là vị trí dân tộc.

Đến lúc nào chúng ta cần phải chấm dứt sự trụ đóng vị trí dân tộc nói đây để bảo đảm cho sự phát triển tương lai của dân tộc, đúng theo nguyên tắc “TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ”?

Chắc chắn trong thời kỳ này của cộng đồng dân tộc, chưa có sự chấm dứt nói đây. Thời kỳ này gồm nhiều thế hệ sắp đến. Chúng ta phải tin tưởng vào sự sáng suốt của các nhà lãnh đạo sau này, để quyết định đúng lúc sự thôi không trụ vào vị trí hiện tại.

Các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở miền Bắc đã trụ vào lý thuyết Cộng Sản trong thời kỳ tranh giành độc lập. Chúng ta đã thấy trong các trang trên, sự đi đúng đường một phần nào của họ trong một giai đoạn. Nhưng chúng ta cũng đã phân tích các lý do vì sao sự tiếp tục trụ đóng vào phương tiện Cộng Sản hiện nay, là một lối bế tắc cho sự nghiệp tiến hóa của dân tộc. Chẳng những như chúng ta đã phân tích, sự tiếp tục trụ đóng vào lý thuyết Cộng Sản sẽ không làm sao giải quyết được công cuộc phát triển cho dân tộc, mà lại còn mở cửa đưa các thế hệ sau này, vào một đời sống vô cùng đen tối không lối thoát.

Trung Cộng tự mình cũng chưa giải quyết được vấn đề phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Từ ngày các sự viện trợ của Nga đã chấm dứt, các công cuộc phát triển của Trung Cộng hoàn toàn đình trệ. Do đó, tự đặt mình vào vòng ảnh hưởng của Cộng Sản, nghĩa là của Trung Cộng, các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự mình đã từ bỏ công cuộc phát triển cho dân tộc.

Hơn nữa, sự phát triển của một khối người gần 800 triệu dân như của Trung Cộng, là một mối đe dọa cho toàn thế giới. Và vì vậy công cuộc tìm phát triển của Trung Cộng tự nó, dù mà Trung Cộng không có gây hấn với ai cả, cũng gây nhiều kẻ thù. Những người này nhất định sẽ cản trở không để cho Trung Cộng phát triển.

Các biến cố chính trị gần đây đều xác nhận sự phân tích trên. Nay nếu chúng ta gắn liền số mạng của dân tộc Việt Nam vào với số mạng của Trung Cộng thì hành động đó có nghĩa là chúng ta sẽ từ bỏ công cuộc phát triển đang cần thiết cho sự sống còn của dân tộc.

Trung Cộng giải quyết không được công cuộc phát triển của dân tộc Trung Hoa. Nhưng số người 800 triệu dân cần phải nuôi, là một thực tế không thể phủ nhận được. Sự bành trướng mà Trung Cộng bắt buộc phải thực hiện dưới áp lực nhân khẩu kinh khủng đó đã mở màn. Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn cảnh đó cũng đủ cho chúng ta khủng khiếp.

Vì vậy cho nên, công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc, không lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng dân tộc Việt Nam bằng trong lúc này.

Và vì vậy cho nên, chúng ta thành khẩn mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc, kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của dân tộc, không còn nên tiếp tục sự trụ đóng vào phương tiện Cộng Sản nữa.

HẾT

 

 

sách Tham Khảo

BAINVILLE (Jacques) Histoire de France (Plon)

CHURCHIIL (S. Winston) Mémoires sur la Deuxième guerre mondiale (I à VI) (Plon)

COOMARASWAMY (Awanda K.) Hindouisme et Bouddhisme

DE GAULIE (Charles) Mémoires de Guene (I à III) (Plon)

DURANT (Will) Histoire do la Civillisation (I à IX)

ETIENNE (Gilbert) La Voie Chinoise (Tiers Monde)

FALL (Bernard) Indochine 1946-1962 (L'histoire que nous vivous)

GEORGE (Piene) Géographie sociale du Monde (Presses universitaires de France)

HAYWARD (Fernand) Histoire des Papes

KOESTLER (Arthur) Le Lotus et le Robot (Calmann-lévy)

LACOUTURE (Jean) La Fin d'une Guerre. Indochine 1954 (Editions du Seuil)

LE THANH KHOI Histoire du Viet Nam

MAO TSE TUNG La Guerre Révolutionnaire

MARX (Karl) Le Manifester du Parti Communiste; La Lutte des Classes

MAUROIS (André) Histoire d'angletère

MENDE (Tibor) Converstions avec Nehru; Aux Pays des Moussons; Asie du Sud- est; L'inde devant l'orage; La Chine et son Ombre; Des Mandarins à Mao

MITTERAND (Francois) La Chine au Défi

MIGOT (André) Le Bouddha (le club francais du livre)

NEHRU (Jawaharlal) The Discovery of India; Glimses of World History (Meridian books, London)

PERROUX (Francois) L'economie des jeunes nations; Industrialisation et groupement des nations

RIBBENTROP (Joachim Von) De Londres à Moscou

RUSSELL (Bertrand) La Philosophie Occidentale

SAINT PHALLES (Alexandre de) Tour du Monde (I à VI)

SCHWEITZER (Dr Albert) Les Grands Penseurs de l'inde

SPENGLER (Oswald) Le Déclin de l'occident (I et II) (Gallimard)

TABOULET (Georges) La Geste francaise en Indochine (I et II)

TOYNBEE (Amold) A Study of History (I à XI) (Oxford); A Study of History (Abridgement by D. C. Somerveil I et II); La civillisation à l'épreuve; Guerre et Civillsation; L'histoire, un Essai d'interpretation (Gallimard); Le Monde et l'Occident

TOURNOUX (J.) Secrets d'état (Plon)

TRUMAN (Harry) Mémoires (I et II)

VU QUOC THUC Economie Communaliste au Viet Nam

ENCYCLOPÉDIE DE LA PLÉIADE Histoire Universelle (I à III); Litérature Universelle (I à III)

HISTOIRE ILLUSTRÉE DE LA RUSSIE (Gallimard)