Tuesday, October 31, 2017

VĂN HÓA VÀ SỰ GIÀU MẠNH CỦA CÁC NƯỚC (Tôn Thất Thiện)



Trường hợp Hoa Kỳ, Xứ Đàng Trong và Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Một câu hỏi quan trọng 


     Trong thời gian qua, tôi được may mắn đọc một tác phẩm của bà Li Tana, một học giả quốc tịch Trung Hoa, gốc Mông Cổ, mang tít Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 (1). Đây là một luận án tiến sĩ được xuất trình tại Đại Học Quốc Gia Úc năm 1992. Chủ đề của luận án này là trong hai thế kỷ XVII và XVIII, ở Xứ Đàng Trong, giang sơn của các chúa Nguyễn, đã xuất hiện không những một quốc gia, mà một nền văn hóa mới, mang bản sắc đặc biệt. Nhờ đó mà Xứ Đàng Trong không những đã vững chắc về chính trị, mà còn hùng cường về binh lực và phong phú về kinh tế, đủ sức để một mặt đương đầu với chúa Trịnh phía bắc, đất đai rộng lớn hơn, dân số đông hơn, tài nguyên nhiều hơn, và mặt khác mở rộng biên giới Việt Nam đến Châu Đốc, Hà Tiên, Cà Mau.
     Tôi sẽ trình bày quan điểm rất mới lạ này về lịch sử Việt Nam chi tiết hơn ở đoạn sau. Ở đây tôi muốn đề cập trước đến phản ứng của tôi về quan niệm mới mẻ trên đây, là: liên quan giữa sự tạo ra một văn hóa mới và sự giàu mạnh của quốc gia. Muốn giàu mạnh một quốc gia phải chấp thụ một văn hóa mới. Nhưng thế nào là "mới" ?
     Tôi đang suy ngẫm về những mối manh của quan niệm trên đây thì xảy ra vụ tranh cãi lớn ở Hội Đồng Bảo An của Liên Hiệp Quốc về vấn đề dùng binh hay không dùng binh chống Iraq. Cuộc tranh cãi không đi đến đâu vì Hoa Kỳ, bất chấp việc không được sự đồng thuận và yểm trợ của Hội Đồng, quyết định dụng binh để lật đổ chính quyền Saddam Hussein.
     Các quốc gia không ưa thích Hoa Kỳ, các bình luận gia và các giới "cách mạng", phản chiến, thiên tả, "politically correct", xoa tay, mỉm cười, nghĩ rằng mình lại có dịp la ó, hô khẩu hiệu, biểu tình, tố cáo, chống đối Hoa Kỳ trong một vụ Mỹ bị "sa lầy ở Việt Nam" nữa. Nhưng, tuy Hoa Kỳ chỉ gom được một liên minh nhỏ, trong đó chỉ có Anh là cường quốc, với một số quân tương đối nhỏ (250.000, so với 700.000 lúc đánh Saddam năm 1991, và 500.000 ở Việt Nam), họ đã thanh toán chế độ Saddam chỉ trong có ba tuần, và tổn thương dưới 150 binh sĩ... Về tổn phí, cuộc hành quân chưa tiêu đến 20 tỷ đô la, trong số 80 tỷ - sơ khởi - mà Quốc Hội Mỹ đã cho phép chi tiêu cho cuộc chiến.
     Hoa Kỳ đã thành công toàn diện và chớp nhoáng nhờ có lực luợng hùng mạnh, nhứt là về không quân và các loại khí giới tối tân mà chỉ có Hoa Kỳ mới có đủ khả năng kỹ thuật và tài chính để chế tạo. Nghĩa là Hoa Kỳ đã chứng tỏ rằng mình mạnh hơn tất cả các quốc gia khác, và giàu hơn tất cả các quốc gia khác. Đây là một dữ kiện buộc mọi người phải suy ngẫm, và tìm hiểu tại sao có sự kiện này?
     Về mặt rộng lớn và tài nguyên, Hoa Kỳ không hơn gì các quốc gia như Nga, Trung Hoa, Brasil, Canada. Diện tích Hoa Kỳ là 9,3 triệu km2, so với Nga (17 triệu), Canada (9,9 triệu), Trung Quốc (9,5 triệu), Brésil (8,5 triệu). Về dân số thì Hoa Kỳ chỉ có 283,2 triệu người, so với Trung Quốc (1.275 triệu), Ấn Độ (1.008 triệu). Nhưng về GNP thì Hoa Kỳ bỏ xa các quốc gia khác với 9.837 tỷ đô la, so với Trung Quốc (1.873 tỷ), và các quốc gia dẫn đầu Âu Châu như Đức (1.873 tỷ), Pháp (1.294 tỷ), và rất xa Nga (251,1 tỷ).
     Nói tóm lại, trong tình trạng hiện tại, về quân sự, cũng như về kinh tế, tại sao các quốc gia trên đây lại thua Hoa Kỳ xa vậy, và dù tất cả có liên minh với nhau, cũng vẫn thua. Hoa Kỳ hiện nay là quốc gia giàu mạnh nhất thế giới. Tại sao ? Một câu hỏi cực kỳ quan trọng. 

Văn hóa Mỹ hướng về tương lai 

     Giải đáp cho câu hỏi đã đến với tôi rất rõ nhờ sự hội tụ của hai sự kiện : tác phẩm của bà Li Tana, và một câu trong bài "Iraq : chiến tranh hay nhân đạo ?" (Thông Luận, tháng 4, 2003) của anh Nguyễn Gia Kiểng. Về bà Li Tana thì xin đề cập đến sau. Ở đây, xin nói đến đóng góp của anh Kiểng. Trong bài của anh có câu : "Trước đây, quốc gia được định nghĩa như một quá khứ chung, ngày nay quốc gia chủ yếu là một tương lai chung. Một diễn viên mới đã xuất hiện và chiếm trung tâm của sân khấu : cá nhân... Đó là nền tảng của một trật tự thế giới mới..." (chữ viết nghiêng là do chính tôi, T.T.T., nhấn mạnh)
     Sự thực hiện ra trong đầu tôi như sau : so với Hoa Kỳ, các quốc gia Âu châu, là những quốc gia được coi như tân tiến hạng nhất của thế giới, đã không tiến được vì người Âu châu hấp thụ một văn hóa nặng về phần bảo tồn quá khứ. Hoa Kỳ đã vượt tới được vì người Mỹ chấp thu một văn hóa hướng về tương lai. Bí quyết của phát triển, tiến bộ ngày nay là đó. Quá khứ là cái neo, có tác động rì chiếc tàu lại, trong khi tương lai là động cơ, có tác dụng đẩy chiếc tàu đi tới.
     Dân nước Mỹ có một cách nhìn đời, nhìn sự vật, nhìn người, xử sự, đặc biệt: họ quay lưng cho quá khứ, và hướng mặt về tương lai. Họ không bịn rịn về quá khứ, không muốn vướng mắc với quá khứ, vì họ là dân di cư, đã đoạn tuyệt với quá khứ, để tìm, để dựng cho mình một cuộc đời mới, tốt hơn, đẹp hơn. Mà cuộc đời mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn đó chỉ có thể ở phiá trước họ, ở tương lai. Phần khác, là dân di cư có quá khứ khác nhau, họ không thể xây dựng một quốc gia trên căn bản của một quá khứ chung được, mà chỉ có thể ý thức quốc gia như một tương lai chung, một tập hợp mới.
     Cho nên người Mỹ có tiếng là ít trọng lịch sử, không thích nói về chuyện đã qua. Họ chú trọng hơn về hiện tại và nghĩ đến tương lai, chuyện sắp tới, tìm cái mới, làm cái mới.
     Trong khi đó, người Âu châu (cũng như Á châu) cứ tự đắc về "văn minh cổ xưa" của họ. Họ rất chú trộng đến lịch sử, và không ngớt ca ngợi "thành tích" của người xưa và thời xưa. Thái độ này thâu tóm trong danh từ "cổ kính" : cái gì "cổ" là đáng "kính". Danh từ Pháp "ancien" (khác với "vieux"), và Anh "ancient" (khác với "old") có nghĩa đó.
     Tất nhiên không phải cái gì xưa, cổ cũng xấu, và nên vất đi. Nhưng điều cần ghi ở đây là "thành tích" của người xưa là những giải đáp hay, tốt, thích hợp cho những vấn đề, và với những kiến thức và phương tiện về thời của họ. Mỗi giai đoạn lịch sử có những vấn đề mới, đòi hỏi nhưng giải đáp mới, dựa trên những tri thức và những phưong tiện mớí. Nuớc Mỹ đã vượt xa các quốc gia khác vì người Mỹ đã lấy lối tiếp cận này làm nguyên tắc chỉ đạo tư tưởng và đời sống hàng ngày của họ.  
Xứ Đàng Trong cùng thái độ 
     Thái độ trên đây cũng là thái độ của dân Xứ Đàng Trong trong hai thế kỷ XVII và XVIII dưới sự cai trị của các chúa Nguyễn.
     Theo bà Li Tana, trong hai thế kỷ XVII và XVIII, ở Xứ Đàng Trong không những đã xuất hiện không những một quốc gia, mà một nền văn hóa mới, mang bản sắc đặc biệt, khác với nền văn hóa cổ truyền phổ thông ở Đàng Ngoài. Ở miền đất phía nam Núi Hoành Sơn, "vùng đất rời rạc nhất thế giới... phủ đầy rừng rậm, và bao gồm một số vùng định cư biệt lập với nhau", họ Nguyễn đã thiết lập và duy trì được một quốc gia thống nhất, và người Việt đã tạo dựng được một quốc gia Việt Nam khác : họ đã có cơ hội để phát triển linh hoạt về mặt văn hóa, tạo nên những truyền thống mới.
     Theo Bà Li Tana, Miền Nam không những là một thực thể khác Miền Bắc về mặt chính trị, kinh tế và xã hội, mà lại có những điểm riêng biệt làm cho nó có một nền văn hóa rất khác với văn hóa cổ truyền. Bà nói rằng một số nhà viết sử Việt Nam có khuynh hướng hạ giá lịch sử Đàng Trong, và vương quốc họ Nguyễn thường được xem như "một biến thể có tính địa phương của triều Lê và của nền văn hóa theo Nho giáo" không khác Đàng Ngoài mấy. Người ta có khuynh hướng bàn về một nước "Đại Việt" duy nhất với những "nét đặc trưng chung của Việt Nam ngay cả vào các thế kỷ 17 và 18", nhưng sự thực hoàn toàn khác.
     Bà viết : "Khi người Việt ở phía nam chấp nhận những cái tên mới họ đặt cho hai miền - vùng ở "trong" (Đàng Trong), chỉ vùng đất của họ và vùng ở "ngoài", (Đàng Ngoài) chỉ phía bắc, thì rõ ràng đã có sự khác biệt giữa hai miền nam, bắc. Sự khác biệt này mang ý nghĩa quan trọng: từ nay, sẽ có hai cách thức làm người Việt Nam khác nhau... đây là một thay đổi căn bản và đầy ấn tượng trong lịch sử Việt Nam. Về tầm quan trọng, sự kiện này có thể sánh với việc Việt Nam giành được độc lập từ tay Trung Hoa vào thế kỷ 10... về bản chất, đây là một sự kiện đã dẫn đến thành lập một hệ thống nhà nước mới và một nền văn hóa mới phồn thịnh... vào thời đó, không chỉ có hai nước "Đại Việt" mà còn có thể nói, vương quốc ở phía nam có những điểm riêng biệt làm cho nền văn hóa Việt Nam trong tương lai xa thêm phong phú rất nhiều". 
     Có tình trạng trên đây là do khí lực và sức sống của Đàng Trong nảy sinh trực tiếp từ óc thực dụng và mềm dẻo của các người Việt di dân. Những người này đã "sẵn sàng coi nhẹ những khía cạnh của tập tục và truyền thống tuy vẫn còn ý nghĩa đối với người dân ở phía bắc, nhưng không còn thích hợp tại vùng đất phía nam nữa".
     Nói đến "tập tục và truyền thống" là nói đến Khổng giáo. Nhưng, bà Li Tana giải thích, các chúa Nguyễn không thể dùng Khổng giáo làm căn bản cai trị được, vì "khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình". Ta nên nhớ là căn bản tư tưởng Khổng giáo là tôn trọng "chính thống", "tôn ty trật tự", "tam cương" (trong đó "trung quân" chiếm hàng đầu), và trong một quốc gia Khổng giáo, phiến loạn, hay chỉ bị nghi là có ý phiến loạn, chống đối triều đình, là "trọng tội", tội nặng nhất dẫn đến không những tử hình cho cá nhân đương sự, mà đến cả "tru di tam tộc". Thái độ của các chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng trở xuống, không thể nào thích hợp với Khổng giáo được.
     Phần khác, dân Xứ Đàng Trong là dân từ nhiều vùng, nhiều gốc, nhiều loại, khác nhau. Như giáo sư Phan Khoang viết trong tác phẩm Xứ Đàng Trong 1558-1777 (Sài Gòn, 1967) : "Nhân dân Thuận Hóa bấy giờ [lúc Nguyễn Hoàng đến Thuận Hóa] gồm những thành phần rất phức tạp. Ngoài những người chăm lo cày cấy, làm ăn, còn những người theo họ Mạc, khuấy động cho nhà Mạc, những người tù đày, những du đãng, phiêu lưu, từ các miền Nghệ, Thanh hoặc xa hơn nữa, xâm nhập qua thời đại, đi tìm may mắn ở miền đất mới, những quan quân bất mãn họ Trịnh hoặc bị lầm lỗi bỏ chạy vào nam, những thổ hào, thổ tù cường nghạnh, nhũng nhiễu lương dân, những người Chàm còn ở lại". 

Sẳn sàng thay đổi 

     Như bà Li Tana nhận xét, những phần tử trên đây, tuy nguồn gốc khác nhau, nhưng có một điểm chung: đối với họ, miền nam là "mảnh đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, là một ngõ thoát". Họ là di dân, đến một vùng đất mới, muốn thử một vận hội mới, quyết định xây dựng một cuộc đời mới tốt hơn là những gì cũ mà họ đã dứt khoát bỏ lại đàng sau họ. Họ là những người sẵn sàng di chuyển và thay đổi, không chịu gò bó, dễ dàng bỏ cái cũ, chấp nhận cái mới. Những người này ít bị ràng buộc bởi những gò bó của một địa vị xã hội cao và những quy định trong cách ứng xử của xã hội cũ nên được tự do phát huy sáng kiến khi họ liên tục tiến xuống phía nam. Sự phát triển xuống phía nam này đã tạo một vùng đất trên đó Khổng giáo, ý thức hệ đã chiếm địa vị thống trị ở bắc triều, không được đề cao, thậm chí, về căn bản, hầu như không được biết đến.
     Phần khác, những người dân di cư gốc Việt phải hòa đồng với những người dân sở tại gốc Chàm, gốc Thượng, gốc Miên, và dân di cư gốc Trung Hoa, và mọi người đều ý thức rằng một tập họp như vậy không thể có một quá khứ chung, mà chỉ có thể có một tương lai chung. Do đó, văn hóa của họ là một văn hóa hướng về tương lai.
     Song song với tình trạng trên đây, các chúa Nguyễn áp dụng một chính sách đối ngoại và ngoại thương cởi mở. Không những các chúa không áp dụng chính sách "bế quan tỏa cảng", mà còn khuyến khích giao dịch với ngoại quốc. Thương mại với Đông Nam Á được mở rộng. Thuyền buôn của Đàng Trong qua lại buôn bán với Manila, Batavia, Cao Miên, Xiêm. Thương mại với Tây Phương thực hiện qua trung gian thương nhân Trung Hoa. Các công ty thương mại của người Hoa ở Quảng Đông và thuyền của họ cung cấp cho tàu Âu châu các sản phẩm của Việt Nam và cung cấp cho Việt Nam hàng Trung Hoa và sản phẩm của Âu châu mà Việt Nam cần. Một điều cần nhấn mạnh ở đây là: Phủ Chúa không nắm độc quyền, mà hàng hóa được trao đổi tự do và hàng ngày tại các thị trường địa phương.
     Khuyến khích ngoại thương không những mang lại lợi ích cho chính quyền, mà còn là một nguồn thịnh vượng chung. Nhờ có giao dịch với ngoại quốc các chúa Nguyễn có được khí giới, vật liệu - đại bác, súng tay, thuốc súng, đồng, v.v... - giúp họ chống lại quân Trịnh hữu hiệu, mà nhờ thâu được thuế nhiều, họ còn giải quyết được vấn đề tài chính của một chính quyền mới ở trên một mảnh đất chưa được khai phá. Phần khác, nhờ buôn bán tự do, và được tham gia, dân thường cũng được hưởng những lợi ích mà ngoại thương mang lại : có hàng hóa để dùng, có thị trường để tiêu thụ hàng hóa sản xuất.
     Ngoại thương phát đạt, tất kinh tế cũng phát đạt, và mức sống của dân Đàng Trong cũng rõ ràng cao hơn Đàng Ngoài. Bà Li Tana ghi nhận : so sánh mức sống tại Đàng Ngoài với mức sống tại Đàng Trong, thấy sự khác biệt giữa hai vùng phải là lớn. Bà trích dẫn Lê Quý Đôn, nhận xét rằng : Đàng Trong đã quen thuộc với những thứ hàng không thuộc loại thông thường, và dân Đàng Trong phong phú... dân gian cũng mặc áo đoạn... lấy ảo vải móc làm hổ thẹn, "coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực".
     Tình trạng kể trên chấm dứt với cuộc nổi loạn Tây Sơn, và sau đó, khi đánh bại được quân Tây Sơn, lập lại và nới rộng uy quyền họ Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Ánh xưng đế trên toàn cõi Việt Nam. Nhưng vì bị vụ nổi loạn của Tây Sơn, nghĩa là đảo lộn quyền uy, trật tự xã hội, vua Gia Long và các vua kế tiếp loại bỏ những chủ trương đã mang lại giàu mạnh cho Đàng Trong mà các chúa trước đã theo đuổi trong hai thế kỷ, để đi ngược lại, quay mặt về quá khứ - sùng Khổng, bế quan tỏa cảng - làm suy yếu đất nước, với những hậu quả tai hại, mà mọi người đều biết.
     Nhưng đường lối mà vua Gia Long và các vua kế tiếp lựa chọn - quay mặt về quá khứ - lại là đường lối mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đang theo đuổi hiện nay.  

Đảng Cộng Sản Việt Nam hướng về quá khứ 

     Trong ngôn ngữ thường dân, "cách mạng" có một nghĩa khá đặc biệt. Các ông Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, v.v... thường được liệt vào hàng "cách mạng". Ở đây, "cách mạng" có nghĩa là gan dạ, làm chuyện mà ít ai dám làm : đòi độc lập cho Việt Nam, thách thức chính quyền Pháp.
     Nhưng Đảng Cộng Sản Việt Nam hiểu "cách mạng" theo một nghĩa khác. Theo nghĩa này, "cách mạng" là đổi đời, bỏ cái cũ theo cái mới. "Cách mạng" đây phù hợp với quan điểm quay lưng cho quá khứ, hướng mặt về tương lai, bỏ cái cũ, lấy cái mới. Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tự hào là một đảng "cách mạng". Cho nên, nói rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam hướng về quá khứ thì cũng khá ly kỳ.
     Nhưng trong thực tế, và căn cứ trên thực tại ở Việt Nam từ 1975 đến nay, mà ai cũng biết, Đảng Cộng Sản Việt Nam là một đảng luôn luôn quay mặt về quá khứ. Họ chủ trương "kiên trì" chủ nghĩa Mác-Lê, triệt để giữ cho Mác-Lê "trong sáng", bám sát Cách Mạng tháng 10. Chủ thuyết Mác, đưa ra năm 1848, nay đã cũ rích rồi, và không còn phù hợp với những biến chuyển đã xảy ra trên thế giới hơn 150 nay. Thời nay không phải là thời của xe ngựa, hay những những nhà máy tối tăm, thiếu không khí, của dân chúng bệnh hoạn không được săn sóc, mất việc chỉ chờ chết đói, v.v... Chủ thuyết Lê-nin, đưa ra cách đây một thế kỷ, chẳng còn hiệu nghiệm nữa, vì tư bản đã đổi thay rất nhiều, và lại được công nhận là tiến bộ hơn chủ nghĩa xã hội, theo nhận xét của chính những đảng viên kỳ cựu như Nguyễn Khắc Viện và Nguyễn Kiên Giang. Còn Cách Mạng tháng 10, thì nó đã tiêu ma với sự tan rã của Liên Bang Xô Viết và sự giải thể của Đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1991. Chủ nghĩa cộng sản ngày nay chỉ là một đống gạch vụn.
     Nhưng cứ mỗi 5 năm, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại họp đại hội, tuyên bố "kiên trì" với chủ nghĩa Mác-Lê trong sáng (nghĩa là của những năm 1848 và 1905), lấy nó làm kim chỉ nam cho tư tưởng cũng như cho hành động của Đảng, và theo dặn dò của "Bác", vẫn bám chặt Cách Mạng tháng 10 (năm 1917), chăm chỉ nghiên cứu học hỏi, bắt chước kinh nghiệm Bôn-sê-vích, nghĩa là tìm sự thực và một lối đi cho họ và cho xứ sở trong một đống gạch vụn, thay vì nhìn tới, hướng về tương lai, sử dụng cái máy tàu, thay vì cái neo.
     Với tình trạng trên, như anh Nguyễn Gia Kiểng soi sáng trong "Tiến tới một văn hóa tổ chức" (Thông Luận, tháng 5, 2003), những "thay đổi" mà nhiều người cho là đã xảy ra ở Việt Nam trong thời gian qua không bảo đảm được đà tiến sẽ giữ được trong một thời gian lâu, vì chính quyền cộng sản dùng mọi cách để ngăn chận đà tiến của dân tộc Việt Nam. Dân chúng phải vật lộn với chính quyền cộng sản để tiến. Trong cuộc vật lộn này, dân chúng Việt Nam tiêu biểu cho ý chí hướng về tương lai, trong khi Đảng Cộng Sản Việt Nam tiêu biểu cho ý chí hướng về quá khứ. Thật là mỉa mai!
     Tôi muốn kết thúc bài này với một nhận xét về một tư tưởng mới, mà anh Nguyễn Gia Kiểng đã đưa ra trong bài vừa dẫn trên : cần tiến tới một "văn hóa tổ chức". Thật ra, văn hóa tổ chức này là một phần, trong nhiều phần khác cần nhận diện và phát huy ra, của văn hóa hướng về tương lai, nguyên do của sự giàu mạnh phi thường của Hoa Kỳ ngày nay, và cũng đã được lãnh đạo Xứ Đàng Trong áp dụng với kết quả tương tự trong hai thế kỷ XVII và XVIII.
     Tôi đã viết dài dòng về giai đoạn các chúa Nguyễn, vì nó nhắc nhở chúng ta rằng trong tư tưởng Việt Nam, trong tâm lý dân gian Việt, đã có quan niệm : muốn giàu mạnh phải chấp nhận một văn hóa hướng về tương lai. Nay chỉ cần áp dụng nó thôi. Mà điều này rất cần thiết vì trong tình trạng hiện tại của Việt Nam, với dân chúng hai miền Nam, Bắc, phân ly trong 200 năm thời Trịnh-Nguyễn, lại thêm cuộc chiến "quốc-cộng" vớiõ lăng mạ, chém giết, thù hận nhau trong nửa thế kỷ nay, không thể tạo dựng một quốc gia giàu mạnh trên căn bản của một quá khứ chung, mà chỉ có thể xây dựng một quốc gia giàu mạnh trên căn bản một tương lai chung.
     Những dữ kiện trình bày trên đây cho thấy rõ rằng những vấn đề lớn hiện nay của xã hội Việt Nam - hòa giải dân tộc, dân chủ đa nguyên, phát triển, hiện đại hóa - chỉ có thể giải quyết một cách hữu hiệu trong khung cảnh của những cố gắng suy nghiệm, tìm tòi, với thiện chí tối đa, áp dụng một cách tiếp cận mới, khách quan, trong tinh thần xây dựng, nhằm nhận diện những khuyết điểm của người Việt, đề nghị những thay đổi cần thiết nhằm tạo ra một văn hóa mới, để cho xã hội Việt Nam có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi của hiện đại, và không tê liệt trước những biến chuyển trong tương lai.
Tôn Thất Thiện
 

 (1)  Luận án Tiến sĩ tại Đại Học Australian National University, do Nguyễn Nghi dịch. Nhà Xuất Bản Trẻ, Sài Gòn, 1999. Bán tại Nhà Sách Nguyễn Huệ, 40 Nguyễn Huệ, Quận 1, Sài Gòn. Tít tiếng Anh là : The Inner Region: A Social and Economic History of Nguyen Vietnam in Seventeenth and Eighteenth Centuries, 1992.
Tác giả Tôn Thất Thiện

Saturday, October 28, 2017

Chiến tranh ý thức hệ.




Chiến tranh ý thức hệ

Minh Võ

          Trong mấy cuốn sách và bài viết gần đây về các nhân vật lịch sử Việt Nam như Hồ Chí Minh hay Ngô Đình Diệm, chúng tôi thường yêu cầu đặt cuộc chiến Việt Nam vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ. Chúng tôi cũng đã từng phê bình một vài học giả hay sử gia như giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1) và giáo sư Lê Xuân Khoa (2) là đã không đặt cuộc chiến Việt Nam vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu của Cộng Sản. Bởi vì nếu không đặt cuộc chiến Việt Nam vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu thì sẽ không hiểu được nguồn gốc và tính chất  phức tạp của cuộc chiến Việt Nam và sẽ không thể nào đánh giá đúng mức về hai nhân vật lịch sử nói trên. Một sử gia có tham vọng viết lịch sử của toàn bộ cuộc chiến Việt Nam, hay chỉ có một mục đích đưa ra một nhận định về một biến cố hay nhân vật lịch sử Việt Nam trong cận đại sẽ rất dễ bị nhầm lẫn, lệch lạc nếu không xét đến toàn bộ cuộc chiến ý thức hệ Cộng Sản toàn cầu.
          Nhưng chúng tôi chưa có dịp định nghĩa và giải thích một cách rõ ràng đầy đủ  thế nào là chiến tranh ý thức hệ (3). Với bài này, chúng tôi sẽ cố gắng làm việc đó một cách tóm lược tối đa, trong đầu vẫn nghĩ rằng bạn đọc không còn lạ gì những khái niệm về đấu tranh giai cấp, giá trị lao động và giá trị thặng dư, về duy vật biện chứng, duy vật sử quan, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, và thế giới đại đồng v.v... mà chúng tôi đã có dịp trình bày qua trong các tác phẩm trước. Cho nên tôi sẽ không trở lại những vấn đề lý thuyết khô khan, cũ rích nói trên nữa. Xin độc giả hãy coi đây là ý kiến riêng của người viết về khái niệm chiến tranh ý thức hệ. Tuyệt nhiên đây không phải là một bản tóm lược về cuộc chiến tranh ấy. Vì đó phải là một bộ sách nhiều tập, dù có tóm lược đến mấy chăng nữa..
          Nhắc lại cuộc chiến đẫm máu suốt trong 3 chục năm, nhiều người đã than, đây là một thảm họa của dân tộc, "bị xâu xé bởi hai ý thức hệ ngoại lai". Nói vậy tức gián tiếp cho rằng phía Cộng thì chiến đấu vì ý thức hệ Cộng Sản. Còn phía Quốc Gia thì chiến đấu cho một ý thức hệ ngoại lai nào đó, mà có thể hiểu là ý thức hệ tư bản. Những người nói như vậy thường là lớp trẻ, hay những người tự cho mình đứng ngoài và trên hai phe Quốc Cộng trong cuộc chiến 30 năm, và họ tự phụ rằng họ mới có chính nghĩa, mặc dù có lẽ nhiều người trong số họ chẳng bao giờ tranh đấu cho một lý tưởng hay chính nghĩa  nào.
          Riêng tôi không coi tư bản là một ý thức hệ. Càng không cho rằng phía  người Việt Quốc Gia chúng ta chống Cộng vì ý thức hệ tư bản. Theo từ điển nguyên tự thì ngay từ Capitalism chỉ xuất hiện lần đầu vào năm 1856, nghĩa là 8 năm sau khi có Tuyên Ngôn Cộng Sản. Các cha đẻ của kinh tế thị trường tự do, đặc tính của nền "kinh tế tư bản", như Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823) chưa bao giờ dùng từ Capitalism để nói về mô thức kinh tế mà họ trình bày. Vì chính các ông cũng chỉ nói về một lề lối điều hành nền kinh tế tự do theo luật cung cầu, luật tự nhiên. Họ chưa hề đưa ra một ý thức hệ tư bản nào cả, mắc dầu Adam Smith, ngoài tư cách kinh tế gia, còn là một triết gia.
          Nhưng chủ trương kinh tế chỉ huy của Mác thì rõ ràng nằm trong ý thức hệ Mácxít bao gồm nhiều lãnh vực tư tưởng triết học, xã hội học, khoa học tự nhiên v.v... tất cả thành một hệ thống. Cũng chính vì ý thức hệ Mácxít nên mới nảy sinh từ capitalism. Theo Duy Vật Lịch Sử của Mác thì lúc ấy "chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết." Từ đó nhiều người không theo CS cũng bắt chước dùng từ "chủ nghĩa tư bản" một cách máy móc.
          Chúng tôi luôn cho rằng cuộc chiến Việt Nam là một bộ phận nhỏ của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu bắt nguồn từ ý thức hệ Mácxít..
          Bài này gồm 5 phần: định nghĩa, 3 giai đoạn, 4 đặc tính và một định đề, 2 đề xuất.

   Phần I. Định nghĩa chiến tranh ý thức hệ: Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến do, vì, cho và bằng một ý thức hệ.

          11. Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến do (hay bắt nguồn từ) một ý thức hệ. Đó là ý thức hệ Cộng Sản. (4) Nó là nguồn gốc chiến tranh ý thức hệ.
          Tại sao lại bảo ý thức hệ Mácxít là nguồn gốc của chiến tranh ý thức hệ? Trước hết, vì nó chủ trương đấu tranh giai cấp, hô hào, cổ võ giai cấp vô sản đấu tranh nhằm tiêu diệt giai cấp tư sản và các giai cấp khác, hòng đưa vô sản lên nắm quyền chuyên chính, độc tài tuyệt đối. Ý niệm đấu tranh là nguyên nhân và khởi điểm của chiến tranh. Thứ đến, vì nó tuyên chiến với toàn thể nhân loại bằng tuyên ngôn cộng sản, trong đó đòi hủy bỏ quyền tư hữu là cội nguồn mọi quyền tự do căn bản của Con Người. Trong khi Mác coi quyền tư hữu là nguồn gốc của tư bản và vì nó mà nảy sinh sự tích lũy tư bản bằng cách bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân, thì trong thực tế và từ nguyên nhân chính, quyền tư hữu lại là nguồn gốc mọi quyền con người, không phân biệt tư sản hay vô sản.

          12.  Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến ý thức hệ Mácxít. Các người Cộng Sản, khối cộng toàn thế giới thường trực ở trong tình trạng chiến tranh toàn diện để truyền bá ý thức hệ này bằng mọi cách. Thế giới tự do không thể không chiến đấu bằng nhiều hình thức khác nhau để tự vệ. Như vậy hệ tư tưởng Mácxít chính là lý do có chiến tranh ý thức hệ. Để tự vệ và bảo vệ quyền tư hữu, nhân loại không có còn đường nào khác hơn là phải chống lại ý thức hệ đó. Bắt đầu là một cuộc chiến tư tưởng (5). Rồi từ sau thế chiến II là cuộc chiến toàn diện toàn cầu bằng đủ mọi hình thức. Lác đác ở một vài nơi trên hành tinh còn có cả tiếng súng, tiếng bom. Như chúng tôi được biết, thì có ít nhất 8 nhân vật uy tín thuộc nhiều lãnh vực khác nhau đã gọi đó là thế chiến III.(6)
          Vì có ý thức hệ Cộng Sản nên thế giới tự do thấy có bổn phận tham chiến không phải bằng một ý thức hệ nào khác. Mà vì một lý tưởng. Phân tích từ ngữ gốc Latinh như các tiếng Ý tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và cả tiếng Anh tiếng Pháp, thì chữ ý thức hệ (ideologie) bắt nguồn từ chữ idea (idée) là ý hay ý niệm. Thì chữ lý tưởng (ideal) cũng bắt nguồn từ chữ idea (idée). Lý tưởng là một ý tưởng cao cả, phục vụ một mục đích cao cả. Lý tưởng của thế giới tự do trong mục đích tự vệ chống lại ý thức hệ Cộng Sản là gì? Đó là lý tưởng tự do dân chủ, hòa bình công lý, hòa hợp hòa giải, thịnh vượng, phú cường....Tất cả những gì tốt đẹp nhất cho Con Người, cho dân tộc, cho nhân loại.

          13.  Chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản à cuộc chiến cho ý thức hệ Mácxít.
          Mác chủ trương phá bỏ quyền tư hữu, chủ trương đấu tranh giai cấp, chủ trương cách mạng bạo lực... nhằm mục đích gì? Nhằm mục đích đưa giai cấp vô sản lên nắm quyền chuyên chính tuyệt đối, biến xã hội loài người thành một thiên đường (sic) ở trần gian, trong đó không còn giai cấp, không cần chính phủ, hay nhà nước. Thế giới sẽ là thế giới đại đồng. Chính cái thiên đường ở trần gian đó, trong đó mỗi người làm tùy sức mà được hưởng tùy theo nhu cầu (Nhị Các = các tận sở năng, các thủ sở nhu), nghĩa là nói một cách nôm na, muốn gì được nấy. Đấy là cùng đích, là cứu cánh của cuộc chiến ý thức hệ mà Mác chủ trương. Vì cái cứu cánh "cao cả" đó các người Cộng Sản tự cho mình có quyền dùng tất cả mọi phương tiện, bất kể phương tiện nào, dù chính đáng hay không, để tiến hành cuôc chiến ý thức hệ. Đối với họ "cứu cánh biện minh cho phương tiện."

          14.   Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến bằng ý thức hệ.
          Vế thứ 4 trong định nghĩa này (bằng ý thức hệ) nói lên phương tiện, vũ khí mà khối cộng dùng để tiến hành cuộc chiến tranh chống nhân loại. Nói một cách cụ thể, chính chủ nghĩa Cộng Sản, hay ý thức hệ Cộng Sản đã được dùng làm phương tiện đấu tranh. Nghĩa là các cán bộ Cộng Sản luôn dùng những điều "tốt đẹp, tiến bộ, khoa học" (sic) của thuyết Cộng Sản để chiêu dụ chẳng những giai cấp vô sản, giới nghèo trong cộng đồng nhân loại, mà chiêu dụ tất cả mọi người đi theo họ. Mà quả thật trong một thời gian khá dài không thiếu những nhà trí thức, đại trí thức bị lầm hay bị lừa đi theo, ca tụng, cổ võ cho thuyết Mácxít. Nhiều nhà duy vật còn cho rằng loài người đã từ lâu bị xiềng xích của tôn giáo kìm hãm, không tiến lên được. Nay thuyết  cộng sản chủ trương vô thần, coi tôn giáo là thuốc phiện. Vậy thuyết đó đã giải phóng con người. Duy vật biện chứng của Mác cho nhiều người được tự do tuyệt đối không còn bị ràng buộc bởi sợi giây "luân lý đạo đức cổ hủ" nào. Thay vào đó chỉ có "đạo đức cách mạng" hướng dẫn sinh hoạt xã hội. Thậm chí có người  còn dám nghĩ, tất cả mọi sự đều là của chung, thì vợ anh cũng là vợ tôi.
          Vô tôn giáo, vô gia đình đi liền với vô tổ quốc. Vì theo ý thức hệ Mácxít, trong tương lai, khi đã toàn thắng trên toàn cầu, thế giời đại đồng sẽ không cần chính phủ, nhà nước, không còn biên giới quốc gia nữa.
          Dĩ nhiên không phải ai cũng tán thành một thế giới đại đồng kiểu đó. Và không thiếu triết gia, các nhà xã hội học lên tiếng phản bác thuyết duy vật vô thần. Nhưng phải công nhận, trong nhiều thập niên, nó đã được nhiều người tán thành, cổ võ, quảng bá. Điều được tán thành hoan nghênh nhất trong học thuyết của Mác là tính xã hội của nó: Mác bênh dân nghèo!  Mác kêu gọi vô sản (giai cấp bị bóc lột) toàn thế giới hãy đoàn kết chống tư bản (giai cấp bóc lột).
          Nhưng, với tư cách là phương tiện hay vũ khí, ý thức hệ Cộng Sản chỉ là một mặt của chiến tranh ý thức hệ. Mặt khác mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ý thức hệ nói chung chứ không phải một ý thức hệ cụ thể nào. Ý thức hệ được hiểu một cách chung chung là một hệ thống các ý tưởng. Nhưng trong trường hợp này, vũ khí hay phương tiện chiến tranh ý thức hệ còn có thể là một chuỗi các ý tưởng, dù có thành hệ thống hay không. Tuyên truyền chính trị hay vận động quần chúng chính là một thứ vũ khí chủ soái sử dụng các ý tưởng để đấu tranh hay tiến hành chiến tranh.  Tuyên truyền hiểu theo nghĩa rộng nhất còn bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh cân não với mưu trí không giới hạn của các chiến lược gia.
          Để tóm tắt phần I vào một câu, ta có thể nói: Ý thức hệ CS chẳng những là nguồn gốc, nguyên nhân đồng thời là cứu cánh của chiến tranh ý thức hệ, mà còn là phương tiện, là vũ khí dùng trong cuộc chiến. 

          Phần II:  Ba Giai Đoạn chiến lược chính.

          Để giải thích thêm về định nghĩa trên, chúng tôi xin tạm chia cuộc chiến toàn cầu, toàn diện và trường kỳ của ý thức hệ Cộng Sản ra làm 3 giai đoạn để minh họa bằng một vài sự kiện lịch sử có tính điển hình và tương đối quan trọng.
          21. giai đoạn 1: Từ tuyên ngôn Cộng Sản (TNCS, đầu năm 1848) đến khi Lênin thành lập Quốc Tế 3 hay Quốc Tế Cộng Sản (Komintern, 1919)
          Điều quan trọng nhất trong TNCS là đả phá quyền tư hữu. Mác và Ăng Ghen cho rằng quyền tư hữu là nguồn gốc và căn nguyên của chế độ tư bản là chế độ bóc lột.
          Điều quan trọng thứ hai là nó gọi tôn giáo là thuốc phiện du ngủ tầng lớp bị bóc lột không dám đứng lên tranh đấu cho quyền lợi của mình.
          TNCS kêu gọi tất cả những người lao động bị áp bức hãy vùng lên (đánh đổ giai cấp bóc lột)
          Không suy nghĩ nhiếu, và chưa có kinh nghiệm thực tiễn về những điều trên, nên  ban đầu giới nghèo, giai cấp vô sản hân hoan hưởng ứng TNCS. Nhiều chính khách, học giả, nhất là một số nhà xã  hội học cũng tán thưởng. Họ coi học thuyết của Mác như một phát minh có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới.
          Nhưng không thiếu những nhà tư tưởng, và nhất là lãnh tụ tôn giáo sớm nhận ra cái sai và coi học thuyết này là mối nguy cho xã hội.
          Vậy là một cuộc đối đầu, xung đột về mặt tư tưởng, mặt lý thuyết đã thành hình. Chiến tranh ý thức hệ khai mào. Tuy nhiên lúc ấy chưa ai ý thức được đó là một cuộc chiến.
          Trong số những người lên tiếng cảnh tỉnh nhân loại về hiểm họa CS ngay từ khi bản TNCS còn phôi thai là  giáo hoàng Piô IX. (xin xem lại chú thích (5).
          Sau đó ít lâu là Eugene J. Bohm Bawerk đã viết nhiều sách phản bác những chủ đề chính yếu trong học thuyết Mácxít. (vẫn chú thích 5).
          Quốc Tế I bắt nguồn từ biến cố nước Nga đàn áp tàn bạo cuộc nổi dậy của công nhân Ba Lan, đầu năm 1863. Một số nhà xã hội thuộc nhiều xu hướng khác nhau từ Pháp, Ý, Đức, Bỉ  sang Anh (một nước phát triển nhất về thương mại và công nghiệp lúc ấy), để cùng với những nhà xã hội học và công nhân Anh lập ra Hội công Nhân Quốc Tế để bênh vực quyền lợi của công nhân trên thế giới. Họ họp nhau ở đại sảnh Thánh Martin, Luân Đôn. Chủ tọa là Edward Spencer Beesly. Tên của Mác ở cuối sổ. Nhưng dần dần Mác đã nổi bật lên và lãnh đạo tổ chức. Chính ông đã đọc diễn văn khai mạc Quốc Tế 1 vào ngày 27-10-1864. Tại đại hội I tại Genève. (1866), QT1 đã đạt được thành tích là đưa vào chương trình đòi cho công nhân quyền được làm việc 8 giờ mỗi ngày.
          Công Xã Ba Lê (18-3-1871) thất bại ê chề đã làm giảm giá trị của ý thức hệ CS, mặc dù trong số những người chủ xướng và điều khiển nó cũng chỉ có một thiểu số là đồ đệ của Mác. Hơn nữa ngay từ đầu QT1 đã không có một cơ sở lý luận và đường lối thống nhất nên chẳng bao lâu sự chia rẽ trầm trọng giữa phe (vô chính phủ) của Bakunin và phe của Mác đã đưa đến sự giải tán QT1:  Nhóm Bakunin (người Nga) muốn thách đố quyền lãnh đạo của Mác, khiến phe của Mác và Ăng Ghen phải rời trụ sợ sang Nữu Ước, rồi giải tán ở Phladelphia vào năm 1876.  QT1 chỉ sống được 12 năm.
          Sau khi Mác mất (1883) được 6 năm, các đồ đệ ông thành lập tại Paris một liên minh quốc tế các đảng xã hội thường đuợc gọi là Quốc Tế II. Trụ sợ đặt tại Brussels, thủ đô Bỉ. Đại hội Paris này gồn đại biểu giai cấp công nhân của 20 quốc gia. QT2 được thành lập trên nguyên tắc đã được vạch ra từ QT1. Nhưng đã thóat khỏi ảnh hưởng trực tiếp của Mác (đã qua đời).
          Xướng xuất là đảng Dân Chủ Xã Hội  (DCXH) Bỉ được sự hưởng ứng của các đảng DCXH Đức, Thụy Sĩ, rồi đảng Công Nhân Pháp.... Hầu như nước nào ở Âu Châu cũng có một chi nhánh QT2. Như vậy từ QT1 đến QT2 đã có tiến bộ rõ rệt là thành viên thường là các đảng chính trị, có chủ trương đường lối chung. Tại mỗi nước thành viên đều có lập những công đoàn để ra tranh cử với các đảng cầm quyền. Qua các công đoàn này giai cấp công nhân đã tích cực tham gia vào những hoạt động chính trị được hướng dẫn. Nhưng dầu sao QT2 cũng chỉ nhắm những mục tiêu có tính cách giới hạn trong phạm vi xã hội, bằng các phương pháp ôn hòa. Phải đến QT3 cuộc đấu tranh mới quyết liệt hơn. Trong số các thành tích của QT 2 các người CS thường nêu việc lấy ngày 1 tháng 5 làm ngày quốc tế Lao Động. Lênin trở thành một thành viên trong ban lãnh đạo QT 2 vào năm 1905. Quốc Tế 2 giải tán  năm 1916 vì những bất đồng của các đảng thành viên đối với Thế chiến I.
          Hai Quốc Tế này là hai thời kỳ đấu tranh vắn trong cuộc chiến ý thức hệ, nằm trong giai đoạn đầu, thực ra không đạt được thành tích gì đáng kể về mặt chính trị. Nhưng về mặt xã hội nó cũng khiến các xí nghiệp và công ty lớn thay đổi thái độ đối với công nhân và đưa ra được một vài cải tổ tiến bộ. Chính những thay đổi và cải cách đó lại đã chứng minh tư bản không giẫy chết như Mác khẳng định. Theo Mác, căn cứ vào luật tất yếu của lịch sử giai cấp đấu tranh thì thế nào "chế độ tư bản" cũng bị hủy diệt. Hai biến cố quan trọng trong giai đoạn này là cuộc "cách mạng" ở Pháp gọi là Công Xã Paris (1871) đã bị thất bại và sự ra đời của tác phẩm trứ danh của Mác Tư Bản Luận (Das Capital, 1867)
          Tóm lại trong giai đoạn 1 ý thức hệ CS chưa thực hiện được điều gì quan trọng khiến nền tự do của con Người bị đe dọa. Trái lại có nơi có lúc nó đã gián tiếp giúp cải thiện được phần nào cuộc sống và bênh vực quyền lợi của giới lao động.
          Dầu sao qua bài diễn văn khai mạc QT1 Mác đã cổ võ và kêu gọi giai cấp công nhân hãy tranh đấu để nắm được quyền lực chính trị. Nghĩa là cụ thể hóa lời kêu gọi của TNCS. Kết thúc bài diễn văn vẫn là "Vô sản các nước hãy đoàn kết lại"

          22. Giai đoạn 2: Từ Quốc Tế 3 hay Quốc Tế CS đến cuối Thế Chiến II.
          Đây là giai đoạn chủ nghĩa Cộng Sản lan tràn khắp thế giới qua một loạt những đảng Cộng Sản được điều khiển và kiểm sóat chặt chẽ của cái gọi là Quốc Tế 3, hay Quốc Tế Cộng Sản (Komintern). Khi Lênin với đảng Bolshevich (đa số) thành công trong việc cướp chính quyền từ nhóm Menshevich (thiểu số) vào ngày 7-11-1917, thường được họ gọi là Cách  Mạng Tháng 10 (theo lịch Nga), thì phong trào Cộng Sản bùng lên khắp thế giới. Các quốc gia nhược tiểu, nhất là những nước bị trị nhìn vào đó để tìm ra những phương lược đấu tranh giành chính quyền. Nhiều đảng CS mới được thành lập và số đảng viên tăng rất nhanh.
          Chúng tôi vừa dùng cụm từ "cướp chính quyền" để nói về cái mà các tài liệu CS gọi là Cách Mạng Tháng Mười. Vì thực ra cuộc cách mạng của nhân dân Nga nhằm lật đổ vua Nicolas II là vị vua cuối cùng của triều đại Romanov đã xảy ra vào tháng 2 năm 1917. Sau cuộc Cách Mạng này, nhóm Mensheviks (đối lập với nhóm Bolshviks của Lênin) đã thành lập một chính phủ lâm thời do Alexander Kerensky làm thủ tướng và ấn định cuộc bầu cử vào năm 1918. Nhưng Lênin thấy không có hy vọng gì thắng trong cuộc bầu cử đó, nên đã làm đảo chính lật Kerensky. Tiếc rằng cuộc đảo chính ấy đã thành công khiến Kerensky phải chạy ra ngoại quốc, rồi mất tại Hoa Kỳ.
          Từ đó Lênin thiết lập một chính quyền Xô Viết độc tài theo đúng  lý thuyết của Mác. Tội ác dã man nhất là vụ tàn sát toàn bộ hoàng gia Nicolas II vào năm 1918, mở đầu những cuộc tàn sát đẫm máu sau này suốt trong thời gian CS cầm quyền tại Nga.
          Năm 1919 (tháng 3) Lênin tập họp một số  đảng Cộng sản và đảng Xã Hội Âu Châu tại Moscow để thành lập Quốc Tế III cũng gọi là Quốc Tế Cộng Sản (Komintern). Tuy bề ngoài tổ chức này là tổ chức quốc tế với mục đích cách mạng toàn cầu, nhưng thực chất là một cơ quan do các đảng viên Bolshevicks của Nga chi phối điều khiển. Chủ tịch của QT III đầu tiên là Zinoviev, một lãnh tụ Nga Cộng, bạn của Lênin. Nhưng trong thực tế là do Lênin lãnh đạo. Các đảng CS các nước muốn vào tổ chức này phải chịu 21 điều kiện do Lênin đưa ra.
          Trong thời gian đầu chế độ Xô Viết tại Nga đã thực hiện công cuộc hợp tác hóa nông, công nghiệp triệt để. Những hợp tác xã nông nghiệp, nông trường tập thể kiểu Kolkhoze đã  khiến nền kinh tế bị phá sản. Cái gọi là Chính Sách Kinh Tế Mới (New Economy Policy, viết tắt là NEP) được ban hành. Hơn nữa cuộc nội chiến với phái Bạch Nga trong những năm đầu bắt buộc các nhà lãnh đạo Nga Xô phải nới lỏng sự kiềm tỏa. Đây là một bước lùi theo sách lược "hai bước lùi, một bước tiến" của Lênin
          Khi mới thành lập QT III, Lênin đã phái những đảng viên Nga Cộng cỡ Dimitri Manuilsky hay  Gregory N. Voytinsky sang những nước quan trọng như Pháp hay Trung Hoa để lôi kéo, chuyển hóa các đảng xã hội hoặc đặt những cái nhân cho một đảng Cộng Sản tương lai. Cứ thế, phong trào Cộng sản do Nga xô lãnh đạo dần dần xâm lấn vào các nước trên thế giới để mở  rộng "đế quốc Liên Xô" sau này.
          Trong thời gian từ khi QT III ra đời (1919) cho đến khi bị Stalin giải tán (1943), có 7 đại hội. Bốn đại hội đầu được tổ chức đều đặn mỗi năm một lần. Rồi 2 năm sau mới có đại hội V. Rồi 4 năm sau mới có đại hội VI. Và cuối cùng phải 7 năm sau mới có đại hội VII, cũng là đại hội cuối cùng. Lúc này trên toàn thế giới đã có tới 76 đảng Cộng Sản, với 3,140,000. Sở dĩ càng ngày các đại hội càng thưa, là vì phần lớn những chính sách  quan trọng đều do đảng Cộng Sản Nga do Stalin lãnh đạo quyết định. Vài trò của các đảng khác trên thế giới càng ngày càng lu mờ. Đúng ra họ chỉ còn biết ngoan ngõan tuân thủ những chỉ thị của Liên Xô. Những ai tỏ dấu chống đối như Manabendra N.Roy thuộc đảng Ấn Cộng đều bị khai trừ, dù ông này đã lên đến địa vị ùy viên chính trị của QT III.
          Sau khi Hitler lên cầm quyền ở Đức (1933?) tìm cách diệt Cộng Sản thì năm 1935 Stalin đã dẫn dắt đại hội 7 của QT III lấy nghị quyết liên minh với các thành phần không phải vô sản, kể cả những thành phần dân tộc của mọi quốc gia để tập trung mũi nhọn tấn công vào "Phát Xít Đức". Đó là lúc mặt trận bình dân ra đời ở Pháp. Tại Việt Nam, với mặt trận thống nhất dân tộc, chống Phát-xít, những khẩu hiệu sắt máu thời Xô Viết Nghệ Tĩnh tạm gác lại, thái độ chống thực dân Pháp trở nên hòa hoãn..
          Nhưng rồi đến năm 1939 Liên Xô lại ký kết một hiệp ước bất tương xâm với Đức Quốc Xã. Sách lược đấu tranh chống các cường quốc Tây Phương lại quay trở lại 180 độ.         Cho đến khi vào giữa thế chiến II, khi Liên Xô muốn hòa hõan với các nước Tây Phương để có được sự ủng hộ chống Phát Xít Đức, thì Stalin bèn cho giải tán luôn Quốc Tế III.  Đó lại là một bước lùi nữa theo sách lược Lênin (đã chết được 9 năm rồi).
          Không hiểu chiến lược sách lược của Lênin, đã được vạch sẵn trong Những Nguyên Lý của chủ nghĩa Lênin" thì cho rằng cộng Sản lúng túng, hay tiền hậu bất nhất, chỉ vì quyền lợi của Liên Xô. Nhưng thực ra mục tiêu cuối cùng, mục tiêu chiến lược số một là xích hóa toàn cầu của Cộng Sản không hề thay đổi. Họ chỉ thay đổi những bước đi sách lược giai đoạn, tùy theo cái mà Stalin gọi là Cao Trào hay Thoái Trào.         
          Có thể so sánh sự  giải tán QT III này với việc Hồ Chí Minh giải tán đảng CS Đông Dương ngày 11-11-1945. Vì cũng như Liên Xô vẫn tiếp tục lãnh đạo các đảng CS thế giới, để rồi 4 năm sau tái lập một tổ chức Cộng Sản Quốc Tế mới không khác gì QT III tức là Phòng Thông Tin Cộng Sản (Cominform), vào năm 1947, ông Hồ cũng tiếp tục điều khiển đảng CS dưới cái tên Hội Nghiên Cứu Mác Xít, để rồi sau đó 6 năm ông lại cho tái lập thành đảng Lao Động. Trong bình diện Việt Nam cũng như bình diện quốc tế, đó chỉ là một sách lược giai đoạn, trong khi mục tiêu chiến lược toàn bộ vẫn không thay đổi: Bá chủ thế giới.
          Nhiều người cho rằng bá chủ thế giới dưới quyền của đế quốc Liên Xô. Cũng có lý. Nhưng Liên Xô vẫn phải lãnh đạo các đảng Cộng Sản địa phương với chiêu bài thế giới đại đồng của giai cấp vô sản, theo đúng kinh điển Mác Xít, thì mới đạt kết quả cao.
         
          23. Giai đoạn 3: Từ cuối Thế Chiến II đến khi Liên Xô tan rã.
          Trong giai đoạn 2 ta đã thấy Liên Xô tấn công thế giới tự do bằng các đảng Cộng Sản địa phương, dùng các đảng này như những đầu cầu để tiến chiếm dần dần các lãnh thổ do các chính phủ phi cộng sản cai trị. Nhưng phải cho đến cuối thế chiến II âm mưu này mới lộ rõ.
          Không kể những xứ tại vùng Baltic như Latvia, Estonia, và Lithuania, bị Liên Xô xáp nhập từ 1944, một số các nước Đông Âu khác, trong đó quan trọng nhất là Ba Lan đã bị Liên Xô tráo trở không chịu thi hành đúng đắn những thỏa thuận giữa tam cường tại hội nghị Yalta (đầu tháng 2-1945), là phải để cho các nước này được tự do chọn lựa thế chế chính trị bằng những cuộc bầu cử tự do. Họ dùng các đảng Cộng Sản tại chỗmhững nước đó để biến chúng thành những nước Cộng Sản, dưới sự chi phối của Liên Xô. Hồng quân Liên Xô đánh đuổi quân Đức đến đâu coi như Liên Xô có quyền chiếm đóng tới đó. Stalin ngay từ tháng 4 năm 1945 đã nói trắng ra: "Cuộc chiến này không giống như trong quá khứ. Bất cứ ai chiếm đóng một lãnh thổ nào thì cũng áp đặt trên đó hệ thống xã hội của mình. ai cũng áp đặt hệ thống của mình theo lãnh thổ mà quân đội của mình có thể tiến tới. Không thể khác được." (7) 
          Hội nghị Yalta là một trận đánh bằng vũ khí phi vũ trang  đầu tiên giữa Cộng Sản và thế giới tự do trong giai đoạn 3, trong đó phe tự do đã bị đo ván, và học được bài học về quả lừa của đối phương. Nhiều người quy lỗi cho Tổng Thống Mỹ Franklin D. Roosevelt, đang bị bệnh, chẳng còn sống được bao lâu nữa nên đã mất sáng suốt, để Stalin đánh lừa.
          Sau khi Âu châu đã hoàn toàn giải phóng, tam cường Anh Mỹ Nga lại họp tại Potsdam để bàn chuyện chiếm đóng, sau thế chiến. Truman thay Roosevelt, Atlee thay Churchill ở đoạn cuối. Vẫn Stalin với thái độ gian ngoan để chiếm ưu thế. Lại một vố đau nữa cho thế giới tự do.
          Bù lại, kế hoặch Marshall, công trình của ngoại trưởng Đại Tướng George C. Marshall, và thứ trưởng Dean G. Acheson (sau thành ngoại trưởng của chính quyền Truman) đã làm cho khối cộng lúng túng. Kế hoạch này nhắm viện trợ tái kiến thiết các nước châu Âu, kể cả các nước trong khối cộng. Nhưng Liên Xô đã thẳng thừng từ chối. Có lẽ vì họ biết được thâm ý của người chủ trương là đồng thời cũng nhắm lôi kéo các nước Cộng Sản tách xa khỏi Liên Xô. Ngoại trưởng Nga Molotov gọi kế hoặch này là Đô La của bọn Đế Quốc. Thực ra số tiền mà kế hoặch này chi ra từ 1947 đến 1951 đã lên đến gần 13 tỷ MK thờti ấy.
          Để đương đầu với vũ khí "phi vũ trang này" năm 1949 Liên Xô đã thành lập khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance), tức Hội đồng tương trợ kinh tế. Đó là chưa kể năm 1947 họ đã cho tái lập tổ chức quốc tế Cộng Sản dưới cái tên nhẹ nhàng hơn là Phòng Thông Tin Cộng Sản (Cominform)
          Đứng trên bình diện chiến lược sách lược và kỹ thuật chiến tranh ý thức hệ mà nói, thì các hội nghị Yalta, Potsdam, hay kế hoạch Marshall và Cominform, Comecon chính là những hình thức đấu tranh, chẳng khác gì những vũ khí tối tân lúc ấy mà hai bên dùng để "oanh kích" nhau.
          Nhìn một cách phiến diện thì chỉ thấy kế hoạch Marshall và Comecon là hai tổ chức kinh tế. Nhưng nếu tìm hiểu đến nguồn gốc thì sẽ thấy những tác giả đều nhắm 2 mục tiêu vừa kinh tế vừa chính trị. Kế hoạch Marshall không phải chỉ nhắm mục đích tái thiết Âu châu đã bị tàn phá vì chiến tranh, mà còn nhắm tranh thủ nhân dân các nứớc Tây Âu, không để họ bị khối Cộng lung lạc, thu hút. Đó là về mặt thế thủ. Về mặt thế công nó còn nhắm lôi kéo nhân dân các nước Đông Âu, kể cả Liên Xô, hãy từ bỏ thể chế độc tài để có thể nhận viện trợ của các cường quốc Phương Tây, tức cũng là của thế giới tự do.
          Về phía khối Cộng, thành lập hội đồng tương trợ kinh tế (Comecon) cũng là để hóa  giải sức tấn công của kế hoạch Marshall. Đồng thời lập nên một khối vừa chính trị, vừa quân sự để trả đòn Tây Phương.
          Hai năm sau Tổ chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra đời cũng nhắm ngăn chặn sự bành trướng của Khối Cộng. Ngoại Trưởng Dean Acheson là người rất tích cực  trong việc này, cũng như rất hăng hái ủng hộ Đài Loan, và Pháp ở Đông Dương cũng vì mục đích ấy.
          Khi Trung Hoa Lục Địa bị xích hóa, thì các nước Tây Phương càng nhận rõ mối nguy của Cộng Sản hơn nữa. Cộng Sản đã nhuộm đỏ gần một phần ba thế giới rồi! Những ngoại trưởng Acheson và Fosster Dulles, và Tổng Thống Dwight Eisenhower là những người nhìn thấy rõ mối nguy đó. Một loạt các tổ chức liên phòng như CENTO, SEATO, ANZUS được thành lập. Mục đích: ngăn chặn làn sóng đỏ.
          Không những các cường quốc trong Thế giới Tự do đưa ra những biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhắm ngăn chặn làn sóng đỏ. Siêu cường Mỹ lúc ấy còn áp dụng cả những biện pháp tâm linh vừa có tính siêu hình, vừa phản ánh, ít ra là về một phương diện nào đó, một kỹ thuật tuyên truyền bằng biểu tượng. Chúng tôi muốn nói đến việc (năm 1953) Tổng Thống Dwight Eisenhower ký đạo luật cho in và khắc 4 chữ IN GOD WE TRUST trên các đồng Mỹ Kim và các đồng tiền lẻ bằng kim loại. Đó là một cách tuyên xưng Đức Tin, một quyết định tập thể của toàn thể chính quyền, hành pháp cũng như lập pháp, đồng thời của toàn dân Mỹ xử dụng đến vũ khí linh thiêng chống lại tà thuyết vô thần, vô tôn giáo, vào lúc nó tràn lan hầu như sức loài người không ngăn chặn nổi..
          Với sức mạnh kinh tế vượt trội của Hoa Kỳ, đồng Mỹ Kim xuất hiện hầu khắp nơi. Các nhà vô thần khi cầm nó trong tay, không thể không nhìn vào 4 chữ trên. Họ như cảm thấy mình bị tấn công không có cách gì né tránh.
          Theo thiển kiến, đấy là một hình thức chiến tranh ý thức hệ cao siêu mà chỉ có những lãnh tụ sùng đạo như Eisenhower (8) hay Foster Dulles vân vân ... mới nghĩ ra.
          Dĩ nhiên các cường quốc Tây Phương cũng áp dụng những biện pháp thông thường khác của con người, trong đó có cả lực lượng vũ trang: Chiến tranh Triều Tiên. Chiến tranh Việt Nam. Sự qua phân lãnh thổ hai quốc gia này.
          Tại Việt Nam, thời gian sau hiệp định Giơnevơ cho đến tháng 11 năm 1963 là thời gian cuộc chiến mang màu sắc chiến tranh ý thức hệ rõ rệt nhất. Tuy vào giai đoạn chót, (từ cuối 1962) đã bắt đầu có những trận đánh lớn, cấp tiểu đoàn, nhưng nói chung cuộc chiến của CS nặng về du kích, phá hoại, ám sát, bắt cóc và tuyên truyền. Còn về phía Việt Nam Cộng Hòa chiến tranh nặng về "tố cộng", tuyên truyền, thuyết phục và chiêu hồi. Công tác quân sự chỉ ở trong phạm vi nhỏ, "bình định".
          Sau khi ông Diệm bị giết, tình hình an ninh nguy kịch, khiến Hoa Kỳ phải đem đại quân vào, (hay người ta giết ông Diệm, để có thể đem đại quân vào), thì về mặt chiến tranh ý thức hệ, cuộc chiến Việt Nam đã mang một sắc thái khác. Hoạt động quân sự từ cả hai phía leo thang. Những trận đánh lớn làm chết hàng triệu người. Phía CS rất vui vì sự hiện diện của những đơn vị tác chiến Mỹ trên chiến trường miền Nam. Toàn khối Cộng yểm trợ Bắc Việt bằng những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ rằng Hoa Kỳ xâm lược và hô hào toàn thế giới ủng hộ Bắc Việt, toàn dân Việt Nam hãy đoàn kết diệt "đế quốc" Mỹ. Sau này chẳng những Tổng Thống Nixon của đảng Cộng Hòa, mà cả tổng Thống Johnson, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, thống tướng Maxwell Taylor của đảng Dân Chủ cũng nhìn nhận đó là lỗi lầm nguy kịch của chính quyền Mỹ, lúc ấy do đảng Dân Chủ lãnh đạo.
          Đặc biệt là một số nhà báo Mỹ thiên tả không hiểu thực chất chiến tranh ý thức hệ của CS đã coi phe Hồ Chí Minh có chính nghĩa, (cũng như trước đó họ coi Ngô Đình Diệm chỉ là bù nhìn của Mỹ, quá thua kém HCM, cần phải lật đổ). Họ đã hô hào nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh. Mặc nhiên họ đã trở thành những sư đoàn (Mỗi ngòi bút là một sư đoàn), những đạo quân nội phản từ trong lòng tổ quốc giao chiến chống tổ quốc, làm lợi cho kẻ thù. Tổng Thống Nixon trong cuốn The Real War (9) đã nhắc lại lời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói với Sir Robert Thompson rằng chỉ có báo chí Mỹ có thể làm cho thất trận. Ai cũng đã biết đó là những nhà báo như Halberstam, Sheehan, Malcolm Browne..., đã từng hết lời ca tụng Hồ Chí Minh và cũng hết  lời mạt sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hô hào phản chiến.
          Nếu đã biết Cộng Sản là sự ác, là kẻ thù của nhân loại, thì việc Mỹ đem đại quân vào để chống Cộng, là việc chính đáng. Nhưng cần phải có 3 điều kiện:
          Thứ nhất, phải bằng các phương tiện truyền thông làm cho nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam, cũng như nhân dân và các giới chức dân cử Hoa Kỳ thấy rõ lý do của cuộc chiến. Và trong công tác này, báo giới phải giác ngộ trước và phải đi đầu. Chuyện này đã không thể có vì phần lớn báo chí đã bị đầu độc, hoặc không biết rõ về chiến tranh ý thức hệ CS. Nên không thể làm được. Chẳng những thế, họ đã làm ngược lại hoàn toàn.
          Thứ hai, phải tiến hành các thủ tục công pháp quốc tế và giữ đúng thủ tục ngoại giao. Nghĩa là phải có một hiệp ước song phương với chính quyền miền Nam. Điều này đã không có.
          Thứ ba, tư lệnh chiến trường phải ban hành kỷ luật nghiêm minh cho quân sĩ giữ đúng tác phong của một đoàn quân giải phóng, có chính nghĩa. Phải tôn trọng phong tục tập quán của địa phương. Phải tôn trọng, bảo vệ tài sản, sinh mạng của nhận dân địa phương. Phải phổ biến đến từng người lính của những dơn vị nhỏ nhất để mọi người thấu triệt về lý do chính đáng của cuộc chiến: tự vệ, bảo vệ quyền con người, bảo vệ sự tồn vong của nhân loại..Chứ không phải vì quyền lợi của chính phủ Mỹ. Điều này tuy cũng có nhưng không đủ. Vì thế có một số (tuy không nhiều) sĩ quan Mỹ hống hách, lấn quyền các sĩ quan Việt Nam. Một số đơn vị phạm những lỗi lầm nghiêm trọng liên quan đến sinh mạng nhân dân Việt Nam. Trong số những lỗi lầm đó, vụ Mỹ Lai được khối Cộng khai thác triệt để. Trong khi đó vì không coi trọng tuyên truyền, nên phía VNCH và đồng minh đã bỏ qua, hay không khai thác đúng mức những vụ tương tự của Cộng quân. Một khuyết điểm quan trọng nhất trong vấn đề này, là thiếu hẳn một kế hoặch rộng lớn nhằm giải thích cho nhân dân việt Nam cả hai miền Nam Bắc, cùng nhân Mỹ và nhân dân thế giới thấy rõ mục tiêu chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa và phe Đồng Minh chỉ là tự vệ chống lại sự xâm lăng của CS Quốc Tế. Và nhiệm vụ chiến lược này phải do báo chí đảm trách. Tiếc rằng báo chí Mỹ đã chẳng những không làm, mà còn làm ngược lại.
          Vì thiếu ba điều kiện đó, nên cuộc chiến tự vệ đáng lý có chính nghĩa lại bị CS dùng tuyên truyền tinh vi tố cáo là chiến tranh xâm lược. Tiếc rằng nhân dân Việt Nam, nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới, phần lớn đã tin luận điệu của CS. Cho đến ngày nay sự tin tưởng đó có suy giảm. Nhưng vẫn còn ở mức cao, cản trở mọi nỗ lực chống Cộng, và cổ võ cho dân chủ tự do trong nước.
          Vì sớm nhận ra lỗi lầm to lớn về chiến lược đó, nên Tổng Thống Richard Nixon đã bằng mọi giá cố rút chân ra khỏi bãi lầy Việt Nam. Khó khăn lắm. Vì Việt Cộng, được sự ủng hộ của khối Cộng  và dư luận hoàn vũ, vừa ngoan cố, giằng co trong hòa đàm, vừa tung hết lực lượng vào chiến trường. Nhưng nhờ có những sáng kiến đáng ngạc nhiên, Nixon đã thành công.
          Tuy nhiên phải công nhận, và chính Nixon cũng phải nhận, Mỹ đã thất trận ở Việt Nam. Nói cách khác Mỹ đã thua tại một tiền đồn là Việt Nam.
          Nhưng sự kiện gần một triệu người bỏ trốn Cộng Sản, bất chấp mọi hiểm nguy đến tính mạng, đã tạo nên một thứ vũ khí mới  cho một chiến trường mới.Thế giới có một cái nhìn rõ hơn về thực chất Cộng Sản. Vẫn trong trang sách nói trên, Tổng Thống Nixon đã viết: "Ý nghĩa của Thế Chiến III đã được viết lên một cách rõ ràng và hùng hồn trên gương mặt của các thuyền nhân Việt Nam."
          Chính vì sự kiện "bỏ phiếu bằng chân" này, và vì sức chiến đấu anh dũng bền bỉ của biết bao chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, khiến Bắc Việt tuy thắng nhưng đã kiệt quệ về mọi mặt không còn đủ sức thừa thắng tiến lên thôn tính các nước lân bang, theo dự đoán ván bài Đô Mi Nô của Tổng Thống Eisenhower. Chứ không  phải dự đoán này không có cơ sở, như nhiều người nhận định một cách hời hợt.
          Từ đó, rút kinh nghiệm Việt Nam, Nixon đã nghiêng hẳn về những chiến lược phi vũ trang nhắm vào chính tổng hành dinh của khối Cộng ở Liên Xô và nhắm vào nước Cộng Sản đông dân nhất là Trung Quốc. Salt II với Liên Xô. Thông Cáo Chung Thượng Hải với Trung Cộng, Nhượng bộ Trung Cộng phần nào (vâng chỉ một phần nào thôi) về vấn đề Đài Loan. Mở đường cho Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc và tiến dần đến việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh (1949).. Bề ngoài xem ra là những bước lùi. Nhưng thực chất là những đòn tấn công tài tình về chiến lược lâu dài. Nixon đã tách được Trung Cộng ra khỏi Liên Xô, làm suy yếu khối Cộng, dọn đường cho George Bush (cha) và Reagan để tiếp tục những chiến lược phi vũ trang tương tự liên tiếp tấn công khối cộng cho đến khi Liên Xô và toàn khối Đông Âu sụp độ, tan rã.
           Nixon đã dàn binh bố trận ra sao để mở đường đưa tới chiến thắng? Tác phẩm trứ danh của ông nhan đề 1999, chiến thắng không cần chiến tranh (10), cho thấy một số câu trả lời. Trong tác phẩm này Nixon đã tiên tri rằng sẽ có chiến thắng vào năm 1999. Thực ra đại thắng đã đến trước lời tiên đoán của ông 8 năm. Nhưng lời nói chiến thắng không cần chiến tranh thì quá đúng. Trong cuốn sách này ông đã nêu lên ba công tác chiến lược  đại quy mô nằm gọn trong 3 động từ: Deter, Compete, Negotiate. Răn đe, thi đua, thương thuyết. Cứ việc theo lộ đồ ấy mà đi, những Bush (cha), Reagan đã hoàn thành sứ mạng mà Nixon đã trao phó, qua tác phẩm tiên tri này.
          Nên nhớ rằng trước khi mở toang thành trì kiên cố cho đối phương tiến vào triệt hạ, lãnh tụ khối Cộng Mikael Gorbachev đã đi gặp Bush, Reagan, rồi Giáo Hoàng John Paul II. Sau này chính ông đã nhìn nhận vai trò quyết định của Reagan và John Paul II trong việc chấm dứt chiến tranh lạnh và tái lập hòa bình thế giới. Cái gì đã thay đổi hoàn toàn con người của Gorbachev khiến ông ta được lãnh giải Nobel Hòa Bình? Đó là chiến lược tài tình về sự xử dụng những võ khí "phi vũ trang" (trường hợp này chỉ đơn sơ là những cuộc hội đàm hay thương thuyết) trong chiến tranh ý thức hệ. Tuyệt nhiên không cần dùng đến võ khí nguyên tử, hay hệ thống lá chắn thuộc vế cái gọi là chiến tranh giữa các vì sao (Star war). Nhưng những thứ đó chính là chiến lược "răn đe ngăn chặn" (deterrence) của Nixon.  Xin hãy nhìn vào sự sụp đổ của Ba Lan, mở đầu cho những sụp đổ giây chuyền, như kết cục của ván bài domino, của các nước Cộng Sản Đông Âu để thấy rõ điều đó. Chỉ trừ ở Roumania, là có những trận đánh tổn thất nặng về nhân mạng.
          Xin có một lời cuối về thực chất chiến tranh ý thức hệ. Tuy vũ khí chủ yếu là "phi vũ trang". Nhưng nó không loại trừ các vũ khí thông thường cổ điển. Bởi vì chiến tranh ý thức hệ CS là một thứ "toàn bộ chiến" theo quan điểm của  Karl Von Clausewitz rất được Engels và Lênin tâm đắc và áp dụng. Cho nên không nên thắc mắc về những trận đánh ở Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam, cũng như cuộc chiến đẫm máu tiêu diệt tàn dư của chế độ Ceaucescu ở Roumania, hay các cuộc đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy lịch sử của nhân dân các nước Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung và Việt Nam tại Praha, Poznan, Budapest và Qùynh Lưu v.v...
          Theo quan điểm chiến tranh cổ điển, thì những vụ trên chỉ là những điểm nóng tạm thời trong cuộc chiến tranh lạnh, không đáng kể trên bình diện toàn cầu, không cho phép gọi đó là thế chiến 3 được. Phần  đông các chiến lược gia theo quan điểm cổ điển cho rằng chỉ khi nào xảy ra chiến tranh nguyên tử giữa hai khối Đông và Tây lúc ấy mới gọi là thé chiến 3. Nhưng theo định nghĩa chiến tranh ý thức hệ mà chúng tôi đã đưa ra ở phần đầu, và theo quan điểm chiến tranh phi vũ trang của Nixon và một số chiến lược gia am hiểu về Cộng Sản, thì đây chính là thế chiến 3. 8 Người gọi nó là thế chiến 3 đều cho rằng lúc ấy CS thắng vì họ biết họ đang ở trong thế chiến 3, còn phía thế giới tự do thì đang thua, vì không biêt mình đang lâm chiến hay hưởng hòa bình (trong chiến tranh lạnh!) (11).

          Phần III: Đặc tính của chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản.

          Theo 4 phần của định nghĩa và 3 giai đoạn của chiến tranh ý thực hệ nêu trên, thì cuộc chiến ý thức hệ Cộng Sản có 3 đặc tính sau đây: Toàn cầu, toàn diện và trường kỳ.
          31. Tính toàn cầu:   Vì nó phát xuất từ đấu tranh giai cấp. Mà giai cấp thì ở nước nào cũng có. Mác kêu gọi giai cấp công nhân đứng lên đánh đổ giai cấp giai cấp tư sản. Vì cho rằng giai cấp tư sản, là giai cấp chủ bóc lột  thợ, là giai cấp vô sản. Nhưng thực ra đối với Mác, và các người Cộng Sản nói chung, mọi giai cấp đều là kẻ thù của vô sản. Trí thức, Phú nông, địa chủ, kỳ hào... đều cần phải đào thải. Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.
          Nói công nhân là nói giai cấp chiếm đa số trong các nước công nghiệp cực thịnh như Anh Mỹ, Pháp, Đức....trong thời đại Mác. Nhưng chủ nghĩa Mác lại được Lênin áp dụng thành công (tạm thời) trước tiên tại nước Nga, là nước chưa phát triển về công nghiệp. Đúng ra Nga lúc ấy chỉ là một nước nông nghiệp. Vì vậy những cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất tại Nga, cũng như tại Trung Quốc, và phần lớn các quốc gia Cộng Sản thời ấy là cuộc đấu tranh của bần nông chống địa chủ dưới sự thúc đẩy của các đảng Cộng Sản. Đó là lý do tại Liên Xô, rồi Trung Quốc, rồi Việt Nam đã lần lượt xảy ra những cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu. Nhưng để khỏi bị phê phán là đi ngược đường lối đấu tranh của tổ sư Mác, Lênin vẫn đưa ra nguyên tắc giai cấp công nhân là đội tiền phong. Nhưng phải liên minh với giai cấp bần nông. Gọi tắt là liên minh công nông. (12)  
          Ngoài tính giai cấp ra, thuyết Mác xít còn chủ trương phá bỏ quyền tư hữu vì cho rằng vì nó mà nảy sinh chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc mọi tội lỗi đối với xã hội nói chung, và đặc biệt, đối với giới vô sản nói riêng. Nhưng thực ra  quyền tư hữu là quyền căn bản của con người. Tạo Hóa tạo dựng con người, ngay từ sơ khai ai cũng tự cho mình có quyền có của riêng, trong đó có quyền tự do là quyền tối thương. Vì thế chống quyền tư hữu là chống nhân loại khắp hoàn cầu. Cứ nhìn vào sự thất bại thảm thương của các hợp tác xã kiểu Kolkhoze ở Nga, hợp tác xã vĩ đại kiểu công xã nhân dân ở Trung Quốc, hay các chính sách hợp tác hóa công nông nghiệp, cấp thấp rồi cấp cao ở Việt Nam thì đủ thấy: đi ngược lại luật tự nhiên về quyền tư hữu là tai họa.
          Tuy có nhiiều người bào chữa cho Cộng Sản nói rằng Cộng Sản chỉ chủ trương công hữu hóa các phương tiện và tư liệu xản xuất, chứ không chủ trương xóa bỏ mọi quyền tư hữu. Nhưng đọc Tuyên Ngôn Cộng Sản, thì thấy không hề có sự phân biệt hay giới hạn đó. Công hữu hóa các phương tiện sản xuất là bước đầu sẽ dẫn tới "tất cả đều là của chung": Cộng sản.
          Cứ đọc, hay nghe, những lời kêu gọi vô sản thế giới hãy đoàn kết lại, hay hãy vùng đứng lên mà từ tổ sư Mác cho đến các lãnh tụ Cộng Sản sau này đều dùng nó để kết thúc Tuyên Ngôn CS, và các diễn văn quan trọng, cũng đủ thấy tính toàn cầu của cuộc chiến.
          Hơn nữa chính những tổ chức Cộng Sản đều mang hai từ Quốc Tế. Nghĩa là toàn cầu. Quốc Tế I, Quốc Tế II, Quốc Tế III, và Quốc Tế IV.
          Cho đến năm 1935, ở đại hội VII của Quốc Tế III trên toàn thế giới đã có tới 76 đảng Cộng Sản.(13) Tất cả đếu là những mũi nhọn xung kích nhắm vào thành trì các quốc gia sở tại. Hàng loạt các quốc gia bị đe dọa tấn công. Và thực sự tại nhiều quốc gia, những đảng Cộng Sản đã thành công trong việc đánh chiếm chính quyền, áp đặt chế độ Cộng Sản (mà họ thường gọi bằng một cụm từ nhẹ nhàng văn vẻ hơn: xã hội chủ nghĩa... (14)
          Khi Cộng Sản đã chiếm được một phần ba nhân loại rồi, các lý thuyết gia, các học giả và chính khách Mỹ mới nhận ra tính toàn cầu của chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản. Nhiều người bắt đầu gọi đó là thế chiến III, hay World War III (WWIII). Nhưng phần đông vẫn không ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, vẫn dè dặt chỉ gọi đó là chiến tranh lạnh. Lạnh hay nóng, nó là thế chiến thì đáng lý phải gọi đúng từ của nó là thế chiến III.
          Từ 1998, trong cuốn Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, chúng tôi đã nêu lên những người đầu tiên (ít nhất theo sự hiểu biết của tôi) dùng mấy chữ thế chiến 3. Đó là giáo sư Robert Strausz-Hupé cùng với 3 đồng tác giả với ông, và người điểm cuốn sách Protracted Conflict (Xung Đột Trường Kỳ) của Strausz-Hupé, là Max Eastman. Tác phẩm xuất bản năm 1959. Bài điểm báo đăng trên The Reader's Digest năm 1961. Sau này (đầu tháng 5-1975) nhà văn giải Nobel Alexander Solzhenitsyn đã dùng lại.(15)  Và trong cuốn The Real War Tổng Thống Richard Nixon cũng trưng dẫn Brian Crozier (tác giả cuốn Strategy of Survvival, tạm dịch: chiến lược để sống còn) cũng nói rằng các chiến lược gia thế giới Tây Phương cứ ngở thảm họa thế chiến 3 sẽ phải là thế chiến nguyên tử đã chẳng bao giờ xảy ra. Trong khi đó, thực tế thế chiến 3 đang xảy ra trước mũi họ mà  không biết.
          Một cuộc chiến thực sự đã xảy ra trên bình diện quốc tế. Nó có tính toàn cầu. Vậy không từ nào chính xác hơn để gọi nó: Thế chiến III. Vì không nhìn ra sự thực phũ phàng ấy, nên trong một giai đoạn dài, thế giới tự do đã thua. Thua đậm nhất là tại Việt Nam. Chỉ cho đến khi  những Nixon sực tỉnh nhận ra tại sao mình thất bại và cố bằng mọi giá rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam, rồi kêu toáng lên Đừng Việt Nam Nào Nữa (No More Vietnams) thì lúc đó tình thế mới đổi chiều.
         
          32.  Tính toàn diện. Cứ nhìn vào cách chiến tranh ý thức hệ CS triển khai và tiến hành, thì thấy rõ tính toàn diện của nó. Ngoài ra tính toàn diện cũng nằm ngay trong phần 4 của định nghĩa: Chiến tranh bằng ý thức hệ, hay bằng ý niệm. Ý niệm là nguồn gốc của hành động. Mọi sinh hoạt của con người và xã hội đều bắt nguồn từ ý niệm. Nó phản ánh và bao gồm mọi loại sinh hoạt. Hơn nữa về mặt chiến lược, phải công nhận khái niệm chiến tranh toàn bộ (Total War) do Karl Von Clausewitz xướng xuất đã được Engels, học trò của ông và Lênin, người tán thưởng ông, trân trọng áp dụng. Như vậy chiến tranh của Cộng Sản bao gồm mọi mặt sinh hoạt của xã hội. Chẳng cứ gì quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa mà đặc biệt là tuyên truyền và tình báo v.v....Tất cả mọi thứ đều có thể là vũ khí, mọi lãnh vực đều co thế là mặt trận.
          Tuy nhiên tưởng cũng nên nhấn mạnh về một vài khía cạnh  được các chiến lược gia Cộng Sản đặc biệt quan tâm áp dụng. Như đã nói trong phần 4 của định nghĩa, chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến bằng ý hệ, ý niệm. Do đó tuyên truyền có thể được coi là vũ khí chủ lực. Hồ Chí Minh đã từng là ủy viên tuyên truyền của Quốc Tế 3. Ông đã nhận chỉ thị của Quốc Tế 3 lập nhiều trường tuyên truyền tại Hoa Nam và vùng Đông Nam Á. Trong chính phủ đầu tiên của ông ta có bộ tuyên truyền do Trần Huy Liệu cầm đầu. Đơn vị "tác chiến" đầu tiên ông lập và giao cho Võ Nguyên Giáp chỉ huy có cái tên rất đặc biệt: đội vũ trang tuyên truyền giải phóng quân. Nó chỉ là một trung đội nhỏ bé, nhưng vô cùng quan trọng về mặt chiến lược. Từ đó một trung đội trưởng tầm thường, họ Võ đã trở thành đại tướng tổng thư lệnh lực lượng võ trang toàn quốc. Như vậy, về một khía cạnh nào đó. Cuộc chiến chủ yếu là chiến tranh tuyên truyền. Ở đây hai chữ tuyên truyền biểu hiện thực chất của toàn bộ cuộc chiến ý thức hệ.
          Chúng tôi nêu trường hợp Việt Nam cho dễ thấy, dễ nhớ. Nhưng trong phạm vi quốc tế tuyên truyền cũng đóng vai trò then chốt về chiến lựoc. Tuyên truyền thay cho vũ khí có lý do của nó. Trước hết ban đầu lực lượng vô sản thế giới, dưới sự lãnh đạo của một số trí thức như Mác và Ăng Ghen, Lênin, còn nghèo, so với kẻ địch. Tục ngữ có câu:  Khỏe dùng sức, yếu dùng chước. Lời nói không mất tiền mua, có thể biến thành vũ khí lợi hại. Dại gì không khai thác tối đa. Hơn nữa dùng ý và lời thay cho vũ khí còn có cái lợi là đối phương không biết được công dụng lợi hại của nó. Đối phương sẽ dễ bị đánh bại mà không biết. Trong cuốn Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản, chúng tôi đã để hẳn một chương để nói về tuyên truyền của CS. Và trong Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp chúng tôi đã để một phần ba chương 43 để nhắc lại, với những phân tích mới.
          Tình báo. Các người Cộng Sản có chủ trương mỗi đảng viên là một cán bộ tuyên truyền và tình báo. Mỗi đảng viên đều có một bí danh, để che dấu căn cước thực của mình. Ông Hồ có đến cả trăm vừa bí danh vừa bút danh vừa tên giả. Sự trạng đó nói lên xu hướng tình báo mạnh mẽ trong chiến tranh ý thức hệ CS. Bởi vì muốn làm một cán bộ tình báo (hay điệp viên) phải có bí danh, phải có vỏ bọc, phải có hộp thư sống, hộp thư chết, mực chìm.... Phải tuyệt đối dấu căn cước thật của mình.
          Tình báo chẳng những quan trọng trong chiến tranh quân sự. Nó còn quan trọng hơn trong chiến tranh ý thức hệ. Nó có thể tấn công vào mọi lãnh vực. Cán bộ tình báo CS thường kiêm nhiệm luôn công tác tuyên truyền và phản tuyên truyền. Trong chiến tranh Việt Nam hãy lấy trường hợp Phạm Xuân Ẩn làm ví dụ điển hình. Không biết bao nhiêu tin tình báo về bí mật quốc phòng bị tiết lộ. Không biết bao nhiêu tai hại về tuyên truyền, qua những thông tin sai lạc được cung cấp cho truyền thông Mỹ, qua những câu chuyện rỉ tai, tin đồn thất thiệt bất lợi cho phe quốc gia.
          Chiến tranh nhân dân: Theo lý thuyết Mác xít, giai cấp công nhân giai cấp vô sản là đạo tiền phong. Nhưng trong thực tế các nhà lãnh đạo Cộng Sản luôn dùng từ nhân dân để tăng cường lực lượng. Trong các cuộc chiến tranh gọi là chống thực dân đế quốc hay các chính phủ hợp pháp địa phương, cán bộ Cộng Sản luôn dùng chiêu bài yêu nước, dân tộc để tập họp càng đông "nhân dân" càng tốt. Cuộc chiến được mệnh danh là chiến tranh nhân dân. Quân Đội được gọi là quân đội nhân dân. Từ đó mọi người dân đều dương nhiên tự động biến thành lính. Đã là lính thì phải chịu kỷ luật theo lính. Kỷ luật nhà binh. Thêm vào đó tận dụng khẩu hiệu "Giặc đến nhà đàn bà phải đánh", cộng quân gồm đủ mọi thành phần nam phụ lão ấu. Trên chiến trường biết bao xác chết thiếu nhi 14, 15 tuổi phơi bày la liệt!
          Đã là chiến tranh nhân dân thì mọi tầng lớp nhân dân, văn nghệ sĩ, trí thức đều phải vào khuôn vào phép. Báo chí phải phục vụ chính trị, phục vụ chiến tranh, phục vụ  đảng lãnh đạo. Vi phạm, sẽ bị kỷ luật sắt nhà binh trừng trị.  Những ai không ra chiến trường, đều phải gia nhập các đoàn thể gọi là đoàn thể Cứu quốc. Nhi đồng Cứu Quốc, Phụ Nữ Cứu Quốc, Bô lão cứu quốc, thanh niên cứu quốc, Công Giáo cứu quốc, Phật giáo cứu quốc  v.v....
          Toàn bộ lực lượng nhân dân đó được đoàn ngũ hóa để phục vụ chiến tranh trên mọi mặt trận: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội., tôn giáo...
          Trong cuốn Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản chúng tôi đã dành hai chương nêu một số sách lược điển hình của CS dùng trong chiến tranh ý thức hệ, như các sách lược mặt trận, hòa bình, liên hiệp, trung lập và những kỹ thuật tình báo, tuyên truyền, xâm nhập, khủng bố, phá hoại v.v.... Tất cả đều nói lên tính da dạng và toàn diện của chiến tranh ý thức hệ.
          Khi đã nhận ra tính toàn diện của thế chiến III, thì sẽ thấy tất cả các hội nghị quốc tế, các hiệp ước đa phương, song phương giữa các quốc gia thuộc hai phe đối nghịch đều là những trận đánh, hay những mặt trận. Chỉ nêu một số tượng trưng như Yalta. Potsdam, Giơnevơ về Triều Tiên, Giơnevơ về Việt Nam, rồi Giơnevơ về Ai Lao, hiệp ước Salt II, Thông Cáo Chung Thượng Hải, hay hội nghị Băng Đung và sự thành hình khối các quốc gia không liên kết, hội nghị Vienna giữa hai K ...(16) Tất cả đều không chỉ thuần túy chính trị hay ngoại giao. Chắc chắn đó là những trận đồ với mục đích tấn công hay phòng thủ, hay thoái lui của một trong hai bên đối kháng. Thành công của Khối Cộng là thất bại của Thế giới Tự Do và ngược lại. Có những trận năm ăn, năm thua. Thì cũng có những trận không có bên nào toàn thắng, và những trận cả hai bên đều chiến bại. Phân tích từng sự kiện đòi có một tác phẩm lớn. Xin hãy tạm coi như tạm đủ rõ về tính toàn diện của chiến tranh ý thức hệ CS.

          33. Tính trường kỳ. Mác dậy rằng, theo định luật tất yếu của duy vật lịch sử thì thế nào cũng sẽ đến lúc chế độ tư bản cáo chung, để nhường chỗ cho chế độ Cộng Sản.. Nhưng để thúc đẩy tiến trình lịch sử cho sớm xảy ra, giai cấp vô sản phải kiên trì đấu tranh. Bao lâu chế độ tư bản còn, bấy lâu còn phải tranh đấu. Vì thế cuộc chiến tranh ý thức hệ CS mang tính trường kỳ.
          Nikita Khrutshchev đã từng lớn tiếng: "Đời vắn lắm. Tôi ước mong chóng đến ngày lá cờ đỏ bay phấp phới khắp năm châu." Nhưng sau khi ông ta chết được 27 năm thì lá cờ đỏ trên nóc điển Câm Linh, tổng hành dinh của khối Cộng đã không còn phấp phới nữa. Và cờ búa liềm đỏ chói ở các thủ phủ của tất cả các nước Cộng sản Đông Âu cũng bị hạ xuống. Nói chi đến phấp phới khắp năm châu.
          Nhưng cuộc chiến tranh ý thức hệ vẫn còn tiếp diễn ở những nước Cộng sản còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Cuba... Mới đây trong tháng 11 năm 2007 này Nông Đức Mạnh, lãnh tụ Việt Cộng vẫn còn nhắc đến "chiến công lẫy lừng" của cách mạng tháng mười Nga, coi như chuyện cờ đỏ vẫn còn hy vọng phấp phới khắp năm châu. Ai bảo cuộc chiến đã chấm dứt? Ai dám phủ nhận tính trường kỳ của thế chiến 3, it nhất trong đầu những người Cộng sản Việt?
          Dĩ nhiên, sau khi chiếm trọn miền Nam, và sau một thập kỷ áp dụng chính sách của Cộng Sản, thấy cả nước ngắc ngoải (chữ của tướng Cộng Sản Trần Độ), cần phải đổi mới hay là chết (cũng chữ của Trần Độ), đại hội VI  (1986) của cộng  đảng đã phải bỏ chính sách cũ, bất đắc dĩ cho áp dụng kinh tế thị trường của tư bản. Nhưng theo chiến lược, sách lược đấu tranh của CS, thì họ coi đây chỉ là một bước lùi, một bước ngoặt, đi theo đường vòng. Chứ không phải sự đầu hàng như có người nghĩ. Một thập niên sau, họ bắt tay với Mỹ, kẻ thù cũ. Nhưng chuyện này có lẽ, trong đầu họ, họ vẫn coi như một bước lùi nữa. Hai bước lùi, để mở đường cho một bước tiến, theo lời của chính Lênin. Chúng tôi cũng xin lưu ý là cái đặc tính trường kỳ của chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản nó đặc biệt đến nỗi đúng ra phải gọi đó giai giẳng lỳ lợm, chết đến đít hãy còn cay. Bằng mọi cách phải cố bấu víu mọi thứ để tồn tại. Không thể coi thường được. Những ai đã có kinh nghiệm với Cộng sản, đã từng tranh luận với họ chắc cũng đồng ý như thế. Cũng vì thế xin đừng có ảo vọng rằng Cộng Sản Đông Âu đã sụp đổ, thì Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ sụp đổ nay mai. Nhiều người đã từng nói: Đối với Việt Cộng chỉ có thể đánh. Không có cách nào khác. Nhưng lúc này ai dám nghĩ đến đánh? Vậy thì làm sao? Chúng tôi hy vọng các tổ chức đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền sẽ có những sáng kiến thích đáng về chiến lược và sách lược đấu tranh trong giai đoạn cam go này của cuộc chiến ý thức hệ hãy còn giai giẳng với tính trường kỳ của nó.
          Chúng tôi nói cam go, vì hiện nay Việt Cộng đang đi trò leo giây giữa Trung Cộng và Mỹ, và bề ngoài xem ra được sự ủng hộ và tiếp tay từ cả hai phía, mặc dù bên trong họ cũng biết mình bị cả hai lợi dụng như một lá bài để chơi nhau.
          Chúng tôi cũng hy vọng rằng các tổ chức, đảng phái ở hải ngoại có đủ nhân sự và phương tiện tài chính cũng như khả năng theo rõi sát tình hình trong nước và thế giới để có thể đưa ra một đường lối đấu tranh toàn diện hữu hiệu hầu sớm đem lại kết quả.
          Ở đây, hoàn cảnh và khả năng không cho phép chúng tôi bàn đến những vấn đề rộng lớn ấy. Chỉ xin đưa ra một vài ý kiến cá nhân hầu đóng góp phần bé nhỏ nhất vào việc chung.
                   

IV.  Định đề (Postulat, postulate)

          "Ý thức hệ Cộng Sản (Mácxít) là không tưởng, sai trái, xấu xa, tệ hại và là tai họa của loài người".  Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tóm gọn trong từ "sự ác" (evil).
          Đến nay đại đa số các nhà lãnh đạo quốc gia kể cả các cựu đảng viên, cựu lãnh tụ Cộng Sản trên khắp thế giới đều tin như thế. Nếu còn có ai không tin thì xin hãy coi lời khẳng định trện như một định đề, khỏi cần chứng minh. Cũng tương tự như, trong hình học, định đề Euclid về sự hiện hữu của một đường thẳng duy nhất từ hai điểm trên một mặt phẳng vậy. Xin hãy miễn thứ cho tôi cái tội nhảy từ phạm trù chính trị sang phạm trù toán học. Đây chỉ là một hình ảnh dùng làm ví dụ có tính suy loại mà thôi.
          Thực ra  từ khi ra đời, ý thức hệ Mácxít đã bị các nhà tư tưởng, và xã hội học phản bác rồi. Thực tế về cách thức nó thể hiện trên nước Nga cũng cho thấy nó tệ hại và là nguồn mọi sự xấu xa. Nhiều nhà văn nhà báo tên tuổi từng thích nó, ca ngợi nó nhưng sau khi nhìn vào thực tế đã quay ra tố cáo và lên án nó. Trong số đó đán kể là những André Gide, Louis Fisher, Stephen Spender, Arthur Koester, Richard Wright, Victor Kravchenko.... , Và đặc biệt là cả những cựu cán bộ cao cấp nhất của Cộng đảng Ý như Ignazio Silone, của cộng đảng Nam Tư như Milovan Djilas vân vân cũng nặng lời kết án nó. Đó là chưa kể đến những nhân vật giải Nobel Nga lẫy lừng  như Andrei Dimitrievich Sakharov, Alexander Solzenitsyn sau này.
          Hơn nữa thực tế phũ phàng là ý thức hệ đó đã hoàn toàn phá sản khi chế độ chính trị theo khuôn mẫu và mô hình ý thức hệ Mácxít đã sụp đổ ngay từ cái nôi của nó là Liên Xô. Thực tế đó cũng chứng minh hùng hồn rằng nó sai, xấu và tệ hại nên đã bị đào thải.
          Gần  đây nghị quyết số 1481 ra ngày 27-1-2006 của Cộng Đồng Âu Châu gồm 46 nước thuộc Tây Âu, Đông Âu và Trung Âu đã lên án chủ nghĩa Cộng Sản, và các chế độ Cộng Sản trên khắp thế giới..
          Ngày 12-6-2007 tại Hoa Thịnh Đốn một đài tưởng niệm trên 100 triệu nạn nhân Cộng Sản trên khắp thế giới mới được khánh thành. Và trước đó nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới, nhiều học giả đã tổng kê con số từ 100 đến 146 triệu người bị giết bởi Cộng Sản. Bằng 4 hay 5 lần số tử vong do Đức Quốc Xã gây ra trong thế chiến II. Những sự kiện ấy đủ nói lên cái xấu xa tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản. Tưởng không cần phải chứng minh thêm.
          Còn đối với một thiểu số người CS cuồng tín thì có viết cả một bộ sách ôn lại tất cả mọi biến cố tư tưởng, xã hội, chính trị, chiến tranh, tranh chấp ngoại giao vân vân giống như một bộ lịch sử thế chiến III, cũng khó lòng làm họ thức tỉnh.
          Đã là định đề thì có thể có một số người không chấp nhận và họ có thể tạo thành một hệ thống lý luận khác để bào chữa cho ý thức hệ Mác xít. Nhưng vấn đề là liệu có ai trong số họ đủ sức đưa ra một định đề đối nghịch trong lúc này hay không.
          Tóm lại chúng tôi xin những ai chấp nhận định đề chúng tôi đưa ra hãy tiếp tục theo rõi những lập luận kế tiếp về tác hại của ý thức hệ Cộng Sản và cách ngăn chặn, đánh phá và hủy diệt cái đại họa của nhân loại này, còn rơi rớt lại ở Việt Nam.
          Khi đã chấp nhận định đề Cộng Sản là sự ác và tai họa của nhân loại rồi, thì đương nhiên phải chấp nhận cuộc phản kháng của nhân loại chống ý thức hệ CS là chính đáng và là nhiệm vụ cao quý. Tất cả những cá nhân hay đoàn thể, quốc gia tham chiến chống Cộng đều là đồng minh, dù trong những tổ chức, quốc gia ấy có những phần tử tham chiến vì lý do thực dân chăng nữa.
          Đến nay đã rõ lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam Hồ Chí Minh là đảng viên sáng lập đảng CS Pháp. Sau đó ông đã là ủy viên trung ương Quốc Tế Cộng Sản (Quốc Tế Nông Dân). Được tổ chức này giao nhiệm vụ truyền bá ý thức hệ CS tại Hoa Nam và Đông Nam Á. Chính ông ta đại diện Quốc Tế CS thống nhất các phe phái CS ở Đông Dương để thành lập Đông Dương CS đảng. Từ đó cho đến nay vẫn cái đảng đó tung hoành thực thi đường lối chính sách của Quốc Tế 3, cướp chính quyền từ tay những người yêu nước, mở cuộc chiến nhằm tiêu diệt các phần tử Quốc Gia.
          Các phần tử Quốc Gia đã kháng chiến chống Cộng từ đầu và đã được Pháp Quốc tiếp tay chống Cộng Sản, với kinh viện, quân viện của Hoa Kỳ. Sau đó nhiều quốc gia khác như Thái Lan, Phi Luật Tân, Hàn Quốc, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi v.v... cũng đã gửi quân tới cùng chống sự xâm lăng của Cộng quân. Vì cộng quân được sự viện trợ dồi dào hơn về mọi mặt của Quốc Tế Cộng Sản, nhất là của Liên Xô và Trung Cộng.
          Khi đã đồng ý với những tiền đề trên thì tất cả những ai cùng với các phần tử dân tộc Việt Nam chống Việt Minh Cộng Sản đều có chính nghĩa. Chính Cộng Sản mới chống dân tộc Việt Nam, cũng như chống toàn thể nhân loại. Vì họ chiến đấu cho một chủ nghĩa không tưởng, một thế giới đại đồng ảo. Nhất là họ hy sinh hàng triệu người Việt cho những cái ảo tưởng đó.
          Trong cuộc chiến Việt Nam phe Quốc Gia thất bại. Cộng Sản chiếm một nửa nước năm 1954, rồi 1975 chiếm cả nước. Thế giới tự do đã thua vì có nhiều phần tử tả phái, trong đó có nhiều ký giả Mỹ thân cộng không hiểu ý nghĩa của cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu, đã ca tụng Hồ Chí Minh là nhà ái quốc, là anh hùng dân tộc, lên án chính phủ Mỹ ủng hộ các chính quyền miền Nam, gây nên làn sóng phản chiến dữ dội. Hàng trăm ngàn, rồi cả triệu người biểu tình tại nhiều nơi trên đất Mỹ. Tình hình ấy đã ảnh hưởng tới dư luận thế giới. Ngay cả Vatican (giáo hoàng Paul VI) cũng phải lên tiếng bênh Việt Cộng (mà cứ tưởng vì hòa bình và công lý!). Điều đó khiến chính phủ Mỹ (chống cộng diều hâu như Nixon) cũng đành bó tay trước áp lực của dư luận, mặc dù có bom nguyên tử... Áp lực của dư luận chính là thứ vũ khí quyết định sự thành bại của chiến tranh ý thức hệ.
          Nhưng nếu nhìn cuộc chiến ý thức hệ là một cuộc chiến tranh toàn cầu, theo định nghĩa nêu trên, thì Việt Nam chỉ là một đồn nhỏ, tuy có thể gọi là tiền đồn của bên này cũng như bên kia. Thua ở một đồn nhỏ, dù là tiền đồn, để rồi rút kinh nghiệm đổi chiến lược, chiến thuật hòng mười mấy năm sau toàn thắng trên trận địa toàn cầu. Thì cái thua đó đối với cả thế giới không đáng gì. Nó còn mở đầu cho đại thắng. Chỉ có nhân dân Việt Nam đã tranh đấu can trường trong chiến thuật, mà lại bị thất bại nhục nhã trong chiến lược. Đó là sự thiệt thòi quá to lớn  đối với dân tộc Việt Nam. Nhưng chính kinh nghiệm thất bại của chiến tranh Việt Nam đã góp phần cho chiến thằng của thế giới đối với toàn khối Cộng ở Đông Âu và Liên Xô. Chính những cuộc bỏ phiếu bằng chân năm 1954, rồi 1975 đã góp phần không nhỏ nữa vào việc cảnh giác dư luận hoàn cầu về hiểm họa  CS. Vây phía Quốc Gia không có gì phải hổ thẹn đối với sự thất trận năm 1975. 
          Riêng dân tộc Mỹ, theo thiển ý, nên biết ơn và hãnh diện về vị tổng thống tài ba của mình là Richard Nixon. Chính ông đã can đảm, sáng suốt và tài tình rút chân ra được khỏi bãi lầy Việt Nam, rút kinh nghiệm về chiến tranh ý thức hệ ở mặt trận này để tiến hành một chiến lược hoàn toàn sáng tạo là thương thuyết với các đàn anh và bậc thầy của Việt Cộng là Liên Xô và Trung Cộng để rối mở đường đưa tới chiến thắng chung cuộc vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90.
          Chính Nixon cũng đã gọi cuộc chiến ý thức hệ giữa CS và Thế Giới Tự Do là thế chiến ba (WWIII). Và ông đã tiên đoán chiến thắng vào năm 1999. Và thực tế đã chứng minh lời tiên đoán của ông là đúng, chỉ sai một điểm nhỏ là thay vì phải đến 1999 mới thắng, thì chiến thắng đã tới sớm hơn, từ 1991.  Trong tác phẩm 1999, Victory Without War, Nixon đã trình bày chi tiết chiến lược sáng tạo của ông qua 3 mặt, hoàn toàn phi vũ trang, (nghĩa là chỉ bằng ý thức hệ): Răn đe ngăn chặn (deterence), tranh đua (competition), và thương thuyết (negotiation). Nếu nhìn vào sự sụp đổ của Ba Lan mở đầu cho sự sụp đổ của một lượt các nước Đông Âu thì ta phải thấy Nixon quả là nhà tiên tri. Vì Mỹ không phải có chiến tranh (vũ trang) với khối Cộng mà đã toàn thắng, trước thời gian tiên đoán của ông 8 năm.

          V.  Đề nghị:

           Dựa vào định đề nói trên đề đưa ra những tiền đề hợp lý chứng minh cuộc chiến mà Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương và tiến hành trong hơn ba thập kỷ là một phần của cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu của Cộng Sản Thế Giới.
          Lý do: Vì ông Hồ cũng như phần lớn cán bộ cao cấp Việt Nam ban đầu đều do Liên Xô đào tạo và chỉ huy để phục vụ Quốc Tế Cộng Sản. Chỉ cần mở các tài liệu chính thống của CS, như Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập... và tác phẩm do chính cán bộ cao cấp cộng sản viết cũng thấy vô số chứng từ không thể chối cãi.
          Vì các phương pháp mà CSVN dùng trong chiến tranh là những phương pháp bạo lực, mang đầy đủ những tính chất của cuộc chiến tranh ý thức hệ  toàn cầu của QTCS.
          Vì sau khi chiến thắng năm 1954, rồi năm 1975, CSVN liền cho áp dụng đúng những  chính sách và chê độ theo gương các nước đàn anh. Và đó là những chế độ đi ngược hẳn với truyền thống dân tộc. Nó làm đảo lộn trật tự xã hội Việt Nam và băng hoại đạo lý.
          Sau đây là một vài đề xuất cụ thể nhắm vào các đảng viên CS và tiếp đó là những đề xuất với cộng đồng người Việt Hải Ngoại.

51.     Các đảng viên Cộng sản và viên chức trong guồng máy cai trị trong nước hãy bớt chút thì giờ mở máy vi tính, lên mạng, hay nghe đài từ cộng đồng người Việt hải ngoại để mở rộng tầm nhìn và chia sẻ với đồng bào ở nước ngoài những ưu tư và thông tin về hiện tình thế giới tự do dân chủ và về lịch sử Việt Nam cận đại và đương đại, hầu có thể thông cảm nhau hơn.
          Trong số các đảng viên Cộng Sản, ngoài một số lớn còn trẻ vào đảng chỉ để tiến thân hay lợi dụng, hay tự bảo vệ, có một số, nhất là những người lớn tuổi, đã vào đảng hoặc vì một trong hai lý do sau đây, hoặc vì cả hai. Thứ nhất vì "lý tưởng đầy tính xã hội, nhân bản của nó là để giải phóng giai cấp vô sản". Thứ hai vì lòng yêu nước. 
          Tôi tin rằng phần đông những người vào đảng vì "lý tưởng" của ý thức hệ Mácxít là giải phóng giai cấp vô sản nay đã tỉnh mộng, sau khi thấy khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan rã, nhất là khi thấy đảng CS Trung Quốc đã phải ôm lấy kinh tế thị trường của chế độ tư bản. Rồi đảng CS Việt Nam cũng bắt chước. Vì thế những người đó dĩ nhiên phải quay ra tự bào chữa là mình vào đảng, theo đảng kháng chiến vì lòng yêu nước (17)  
          Số người lớn tuổi vào đảng thực sự vì lòng yêu nước, và chỉ vì lòng yêu nước mà thôi, theo thiển ý không nhiều. Là bởi vì trong thời gian trước, trước khi được chọn làm đối tượng kết nạp vào đảng, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả đều đã được học tập về chính cương và sơ qua về lý thuyết Mácxít. Cho nên thế nào họ cũng biết chủ trương của Mác là đấu tranh giai cấp để cuối cùng đưa giai cấp vô sản (bị bóc lột) lên nắm quyền chuyên chính, sau khi đã tiêu diệt giai cấp tư sản (bóc lột).
          Chúng tôi có một đề nghị với những đảng viên này, nhất là những vị ở trong Trung Ương Đảng. Chúng tôi không muốn động đến bộ chính trị, mặc dù trong đó cũng có người muốn lắng nghe đề nghị của những người "chống cộng", và có thể cũng đang ôm mộng trở thành một thứ Gorbachev hay Yeltsin.
          Xin các vị ấy hãy bớt chút thì giờ ôn lại những gì các lãnh tụ CS Việt Nam, đặc biệt là ông Hồ Chí Minh, đã tuyên bố giữa các đảng viên với nhau hay trong các đại hội đảng, các ngày kỷ niệm của đảng. Rồi so sánh với những gì các nhà lãnh đạo ấy nói với dân chúng, hay trong khuôn khổ nhà nước, với tư cách là chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng bộ trưởng hay bộ trưởng vân vân. Và xin hãy tự đặt câu hỏi, tại sao lại có sự khác biệt đó.
          Cũng xin các vị ấy hãy suy nghĩ đôi chút về sự kiện ông Hồ giải tán đảng CS ngày 11-11-1945. Rồi tự hỏi, tại sao đảng CS đã giải tán từ ngày đó cho đến năm 1976 nó mới được lập lại, mà người ta lại mừng nó 30 tuổi vào năm 1960, và đến nay người ta bảo nó đã 77 tuổi? Có phải ông Hồ nói dối không. Có phải ông Hồ đánh lừa cả nước không? Và đánh lừa để làm gì?
          Thêm một đề nghị nữa. Các ủy viên  Trung Ương đảng hãy đọc kỹ lại hiến pháp 1946. Rồi tự hỏi làm cải cách ruộng đất theo lệnh Liên Xô và Trung Quốc, giống y hệt các đàn anh, dưới sự cố vấn chỉ đạo của cán bộ Trung Cộng để đi đến chỗ hàng trăm ngàn người bị giết oan, như vậy có phù hợp với hiến pháp đó không? Và các tổ chức hợp tác hóa nông, công, thương....nghiệp ngay sau khi chiếm được nửa nước có hợp với hiến pháp không? Rồi đàn áp các văn nghệ sĩ trong các vụ Nhân Văn, Giai Phẩm có phải là vi phạm trắng trợn quyền tự do ngôn luận ghi trong hiến pháp không. Nhiều người đã nói các người cộng sản coi hiến pháp không bằng mớ giấy lộn. Các vị có bao giờ tự hỏi, nói như thế có quá không? có chính xác không?
          Còn rất nhiều điều chúng tôi muốn đề nghị các đảng viên kỳ cựu và nhất là các ủy viên Trung Ương đảng làm. Nhưng kể ra không đủ bút giấy. Vì vậy tôi chỉ xin có một đề nghị chót:
          Tôi hy vọng các vị không khó nhọc lắm để có được cuốn hồi ký của lãnh tụ Liên Xô cũ Ni Ki Ta Khờ Rút Sốp. Xin hãy mở trang 155 tập III (Bản Anh ngữ) và đọc to cho các đồng chí gần đó nghe cho rõ:
          "Các đồng chí phải tôn kính người này (đồng chí Hồ Chí Minh), hãy qùy gối trước ông ấy, để tỏ lòng biết ơn vì những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản..."
          Hãy mở lại tập I trang 480-484 để hiểu tại sao lãnh tụ Khờ Rút Sốp bảo hãy qùy gối trước Hồ Chí Minh. Vì đối với Khờ Rút Sốp, Hồ Chí Minh là tông đồ của Cộng Sản. Hai chữ "tông đồ" mà lãnh tụ Liên xô dùng chứng tỏ, CS coi lòng tin của họ vào ý thức hệ Mácxít, chẳng khác gì đức tin tôn giáo.
          Nếu các vị chưa hiểu tại sao Hồ Chí Minh được lãnh tụ Liên Sô ca ngợi là thánh, là tông đồ của Cộng Sản thì hãy đọc tiếp nơi trang 487 tập I:
          "Giờ đây dân Việt đang đổ máu và hiến mạng sống mình vì lợi ích của phong trào Cộng Sản thế giới."
          Những lời trên của lãnh tụ Liên Xô chứng tỏ ông Hồ đã lợi dụng lòng yêu nước của các vị, và của toàn dân Việt Nam để xô đẩy toàn dân vào cuộc chiến, không phải vì nền độc lập và thống nhất tổ quốc đâu. Mà chính vì phong trào CS thế giới đấy. Không phải chỉ có Khờ Rút Sốp nói thế mà chính ông Hồ cũng đã từng xác nhận "tôi giắt năm châu đến đại đồng", sau khi khen Đức Trần Hưng Đạo: "Bác đưa một nước qua nô lệ". Mà chế độ đại đồng thì như trên đã nói nó loại trừ khái niệm tổ quốc. Thế giới đại đồng là thế giới của giai cấp vô sản khắp thế giới sống chung không cần chính phủ, không có biên giới quốc gia. gọi tắt là vô tổ quốc. Vậy bảo rằng ông Hồ và đảng CS chiến đấu giành độc lập dân tộc có phải là nói láo không. Nếu Đông Âu và Liên Xô không sụp đổ và chế độ CS không biến tan thành mây khói, mà trái lại chủ nghĩa Cộng Sản đã thắng trong cuộc chiến ý thức hệ, thì ngày nay làm gì còn tổ quốc Việt Nam, hay tổ quốc nào khác, chỉ có một thế giới đại đồng giống như thời kỳ đồ đá mà thôi.
          Sau khi đã bình tâm nghiên cứu lịch sử các đảng CS Liên Sô, Trung Quốc, và Việt Nam, rồi ngẫm nghĩ về 3 câu nói của lãnh tụ khối cộng vừa nêu, chắc thế nào cũng có vị hối hận, và phẫn  uất vì bị ông Hồ đánh lừa.
          Vậy thì nếu bạn là tướng lãnh trong quân đội hay lực lượng công an CS, xin nhớ nhẹ tay cho trong các vụ khủng bố, bắt bớ giam cầm dân oan, và những người nghèo khổ không có tiền đi khiếu kiện. Chúng tôi không dám đề nghị các bạn đem quân sĩ dưới quyền đến trụ sở bộ chính trị bắt giam hết nhóm người cuồng tín và giả nhân giả nghĩa, như có người rất mong muốn điều đó sớm xảy ra. Không, chúng tôi chỉ muốn các vị án binh bất động trong các cuộc tranh chấp giữa chính quyền CS và dân nghèo, dân oan, dân bị áp bức, thì đã tốt lắm rồi.
          Nếu quý bạn cho phép tôi nói thêm vài lời nữa, thì tôi xin đề nghị: Hãy can đảm và mạnh mẽ nói điều bạn suy nghĩ với các đồng chí và đồng nghiệp rằng ông Hồ đã đánh lừa bạn, đánh lừa toàn dân.  
          Cái ý đó cứ chuyền đi từ một đảng viên này sang đảng viên khác, thì chẳng bao lâu trong số đảng viên sẽ có một Gorbachev, hay Yeltsin đấy. Tại sao ta chưa có Yeltsin? Vì ta có huyền thoại anh hùng yêu nước Hồ Chí Minh. Nếu toàn dân biết đây là anh hùng giả. Thì tức khắc sẽ có Gorbachev hay Yeltsin thôi.

52.   Đối với quý cộng đồng hải ngoại, ước mong của chúng tôi, cũng như của nhiều người, là làm sao có được một tổ chức lớn mạnh có thể đủ tư cách đại diện cho tập thể người Quốc Gia thì cuộc tranh đấu sẽ có kết quả hơn. Trong trường hợp chưa thể có một cơ quan đại diện chung, thì đề nghị các tổ chức và đoàn thể ai cứ việc của mình mà làm. Có khi nhiều tổ chức, mỗi tổ chức làm một cách, mạnh ai theo đường lối riêng của mình cũng gây cho đối phương lúng túng, không biết đâu mà đối phó. Nhưng trong trường hợp này, xin đừng đả kích nhau. Trái lại nếu thấy tổ chức bạn lập được thành tích đáng khen thì đừng hà tiện lời khuyến khích cổ võ. Hành động có thi đua, cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh để tiến, giúp nhau cùng tiến. Chứ không phải cạnh tranh để tâng bốc mình, gìm người khác xuống, Nếu có tổ chức nào, hay cá nhân những nhân vật tiêu biểu có những hành động hay thái độ sai trái hay làm lợi cho CS, thì cũng nên thành thực phê bình xây dựng. Nhưng nên tránh những lời lẽ hạ nhục, phỉ báng, lăng mạ.
          Việc lăng nhục phỉ báng, nên tránh cả đối với CS. Trong cuộc chiến ý thức hệ, trong giai đoạn này, cảm hóa, thu phục thì tốt hơn là đả kích bằng lời lẽ khiếm nhã. Nói vậy không có nghĩa là đôi khi những lời có thể coi như tục tằn, bất nhã của một vài nhân vật tiêu biểu hay vốn nổi tiếng lại gây được sự chú ý và phản ứng mong muốn, từ phía đối phương cũng như từ phía bạn. Đó là luật trừ.
          Mục tiêu số một của cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện này nhằm giải thể chế độ hiện tại trong nước theo thiển ý, phải là đánh đổ thần tượng Hồ Chí Minh, phá hủy huyền thoại "cha già dân tộc", huyền thoại "anh hùng yêu nước".... vì đây là chỗ dựa cuối cùng của Viêt Cộng. Trong năm qua họ đã bắt toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải học tập tư tưởng và noi gương HCM cũng vì mục đích bảo vệ thần tượng đó.
          Muốn bảo vệ thần tượng HCM, VC phải bằng mọi cách chứng minh cuộc kháng chiến từ 1946 đến 1975 là một cuộc chiến giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Chúng ta phải bằng mọi cách đặt cuộc chiến đó vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ CS toàn cầu, để chứng minh Việt Cộng do ông Hồ lãnh đạo chỉ chiến đấu cho ảo tưởng thiên đường CS, hay cụ thể cho đế quốc Liên Xô.
          Nói đến thần tượng của CS, có người cũng muốn phía Quốc Gia có một thần tượng, và muốn thần thánh hóa ông Ngô Đình Diệm. Theo thiển ý, điều đó không cần và không nên bắt chước CS. Nhưng cũng không nên mắc mưu CS mà đả kích tất cả các  lãnh tụ quốc gia. Công bình mà nói thì trong số các nhà lãnh đạo quốc gia từ 1945 đến nay khó có ai hơn được Ngô Đình Diệm về tài đức và công lao đối với dân tộc. Nhưng ông cũng có những khuyết điểm và nhược điểm, mà rõ ràng nhất là đã dùng những kẻ dễ dàng phản ông, và ông quá "mền yếu", hay "quân tử tầu" không cho những người ủng hộ ông dùng binh lực dẹp đảo chính ngày 1-11-1963, khi họ đề xuất với ông. v.v....
          Tuy nhiên những người công kích ông Diệm đàn áp hay kỳ thị Phật Giáo, thì quả tình không xem xét vấn đề một cách cặn kẽ. Vấn này vô cùng quan trọng đối với việc đoàn kết phe quốc gia. Chúng tôi đã có dịp trình bày khá chi tiết trong hai bài dài đăng trên Đàn Chim Việt đầu năm ngoái. Cho nên, tuy không nên thần thánh ông. nhưng nếu để cho những người không am hiểu tình hình, chuyên căn cứ vào những tố cáo vu vơ của một số người ác cảm để phủ nhận mọi công lao của ông, và liên tục bôi nhọ thanh danh ông thì mặc nhiên khiến cho mọi người, nhất là dư luận thế giới thấy: phe quốc gia chẳng có ai bằng ông Hồ! Điều này hẳn nhiên bất lợi cho cuộc chiến ý thức hệ đang tiếp diễn.
           Đánh đổ thần tượng HCM là công việc hàng đầu. Nhưng nó không dễ dàng. Thứ nhất, vì ông ta đã được bộ máy tuyên truyền của  VC và cả của khối cộng thần thánh hóa trong nhiều thâp niên. Đến nay đại đa số dân trong nước đã bị nhồi sọ, nhất là giới trẻ, coi ông Hồ như vị thánh, chẳng khác  gì đức thánh Trần. Cho nên muốn thay đổi cách nhìn và tâm tư của lớp trẻ về ông Hồ cần phải có một cách tiếp cận đúng đắn, tế nhị. Bằng không sẽ không có ai muốn đọc, muốn nghe chúng ta.
          Cũng vì muốn cho giới trẻ trong nước và nhất là một số đảng viên "lương thiện" lắng nghe quan điểm khác lạ từ hải ngoại, mà có nhiều người chủ trương cứ nói tốt về ông Hồ ở một số điểm, để rồi dần dần nêu lên những sai trái, tàn bạo của ông ấy sau. Nhưng đây cũng là con dao hai  lưỡi rất khó sử dụng an toàn. Cần tính toán kỹ và phải giải thích sao cho bạn của ta không hiểu lầm và lên án. Vì phần đông người quốc gia hải ngoại luôn gọi ông ấy là thằng, là tên tội đồ, là tên phản quốc. Nghe ai nói về ông ta một cách kính nể, hay ôn tồn, họ đều cho là làm tay sai cho CS. Theo thiển ý thì cách dung hòa là nên phân biệt khả năng và đức độ. Nên công bình mà nhận rằng ông Hồ có chí lớn, thông minh và sắc sảo, lại được đào luyện rất kỹ về kỹ năng tranh đấu. Cho nên ông ta đã thành công trong việc cướp chính quyền. Nhưng ông quá tàn bạo và đạo đức giả một cách tài tình, khiến nhiều người bị lầm, nếu không hịểu rõ bản chất Cộng Sản và quá trình hoạt động cho Quốc Tế CS của ông ta. Đưa cuốn tự truyện của ông Hồ viết dưới bút hiệu Trần Dân Tiên ra ánh sáng là một trong những cách hiệu nghiệm để lột mặt nạ đạo đức giả của ông Hồ.
          Kiểm điểm lại những việc mà cộng đồng người Việt hải ngoại đã làm trong ba thập kỷ qua thì phải công nhận sự cố gắng và khả năng của cộng đồng đã tạo nên được những thành tích đáng khích lệ. Tỷ dụ như đã ngăn chặn được sự xâm nhập của CS vào cộng đồng qua những cuộc biểu tình chống Trần Trường, chống tuần báo Viet Weekly trưng hình ảnh và ca tụng Hồ Chí Minh ở quận Cam; chống tay Thomas triển lãm về HCM ở Oakland; vụ tố cáo trường đại học MA Boston và William Joiner Center ở tiểu bang Massachusett về việc những tổ chức này thuê cán bộ CS trong nước (18) viết về Cộng Đồng người Việt Hải ngoại. Nhiều nơi tại Úc hay tại tiểu bang Cali đã ngăn chặn những cuộc trình diễn  văn nghệ của một số tổ chức muốn dùng những diễn viên trong nước quảng bá cho Việt Cộng. ..v.v.. Đặc biệt là những cuộc vận động để trên chục tiểu bang và gần trăm thành phố chấp nhận cờ vàng mà bỏ cờ đỏ. Cũng phải kể đến rất nhiều sách báo và các mạng lưới thông tin không ngừng kể ra những tội ác của Hồ Chí Minh và đảng CS. Tất cả những cuộc viếng thăm Mỹ quốc của các tay CS gộc đều bị cộng đồng người Việt hải ngoại biểu tình phản đối. Không biết bao nhiêu thư ngỏ và kiến nghị của các tổ chức đấu tranh chống Cộng đã được gửi tới các chính phủ và các tổ chức  nhân quyền, tổ chức văn bút, tổ chức Ân Xá Quốc Tế, hay ký giả không biên giới v.v... để nói lên những vi phạm nhân quyền của Cs trong nước, và yêu cầu can thiệp cho những dân oan, hay các nhà phản kháng, các chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ trong nước.
          Chúng tôi không phủ nhận những cố gắng và công lao ấy. Nhưng nếu xét về hiệu quả đối với mục tiêu giải thể chế độ ở trong nước, thì phải thú thực những thành tích ấy chưa đáng lấy làm tự mãn hay hãnh diện.
          Theo thiển kiến, chúng ta phải triệt để dùng phương tiện thông tin hiện đại để nhắm vào các đối tượng trong nước. Từ các cán bộ đảng đến dân chúng, đến các cơ quan truyền thông, các nhà lãnh đạo tôn giáo.... Và phải liên tục thăm dò dư luận trong nước để biết hiểu quả của các công tác tuyên truyền vận động quần chúng của chúng ta cũng như của CS. Mục đích của chúng ta là trước hết đưa vào trong nước những thông tin chính xác về thế giới, về những tiến bộ khoa học, về những tài liệu lịch sử chính xác, vô tư liên quan đến cuộc chiến Việt Nam trong dĩ vãng.
         
          Chúng tôi xin thêm một ý kiến nữa. Các cộng đồng và tổ chức chính trị ở hải ngoại hãy bổ túc những hoạt động chống cộng hiện tại, rất thành công, bằng những kế hoạch đưa tin vào trong nước về tội ác của Cộng Sản, về bộ mặt thật của các lãnh tụ Cộng Sản kể cả, và nhất là, ông Hồ Chí Minh. Xin các tác giả và nhân vật lãnh đạo trong hai nền Cộng Hòa trước đây hãy đặt xuống hàng thứ yếu việc biên soạn những tác phẩm thuộc loại hồi ký tự đề cao hay tự bào chữa về những lỗi lầm của mình khiến chúng ta phải thua trận. Thiết tưởng cho đến nay, như vậy tạm đủ rồi. Mà hãy tập trung chất xám vào việc chứng minh cho đồng bào trong nước và dư luận thế giới thấy rõ rằng cuộc chiến mà CS chủ trương để thôn tính miền Nam không phải là cuộc chiến vì lý tưởng dân tộc, mà là cuộc chiến nằm trong cuộc chiến ý thức hệ toàn cầu, nhằm phục vụ chủ trương bá chủ hoàn cầu của cái gọi là khối cộng, nhưng cụ thể và thực tế là của Liên Xô và/ hay Trung Cộng.
          Chúng tôi đã từng được đọc những tác phẩm có giá trị về phương diện lịch sử của một số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp VNCH cũ. Trong đó nhiều trận đánh oanh liệt cho thấy Quân Đội mình đáng lý không thua. Nhưng phần đông các tác giả không tìm ra đúng nguyên nhân tại sao mình thua. Xin hãy thành thực với mình, đừng đổ lỗi cho Đồng Minh Mỹ phản bội hay bỏ rơi. Chính Mỹ cũng đã công nhận họ thua thực. Mà  mình đã thua, đối phương đã thắng. Thì lịch sử từ đây do phe chiến thắng viết. Những pho sách chiến sử của phe chiến thắng sẽ nói ngược lại hoàn toàn. Hơn nữa cả lịch sử thế giới cũng bị ảnh hưởng mà ca tụng phe Cộng là tài giỏi là chiến đấu vì nền độc lập và thống nhất VN. Như vậy nếu chế độ CS cứ tồn tại trong một thời gian dài, thì sẽ đến một lúc nào đó con cháu chúng ta khi đọc lại tác phẩm của cha ông chúng sẽ nghĩ cha ông chúng nói xạo. Hoặc chúng sẽ bảo, cha ông mình tài giỏi quá. Chiến đấu oanh liệt quá! Nhưng đáng tiếc là lại đem cái tài của mình làm tay sai cho ngoại bang. Nghĩa là thay vì kính phục, chúng sẽ chê trách. Chỉ vì chúng thấy lịch sử trong nước, và thế giới đều ca ngợi ông Hồ là nhà ái quốc, là anh hùng dân tộc.
          Những ai đã đọc hai cuốn tự điển bách khoa Anh và Mỹ về Hồ Chí Minh và hàng trăm tác giả ngoại quốc ca tụng Hồ Chí Minh sẽ chia sẻ mối lo của chúng tôi.
          Vì vậy chúng tôi đề nghị quý vị đó hãy dùng tài viết lách của mình để viết về những kinh nghiệm bản thân có liên hệ đến tội ác, và hành động phục vụ Liên Xô, Trung Quốc hay quyết tâm thực hiện chế độ độc tài tàn ác của CS. Bởi vì nếu so với những hồi ký nói về cái tôi hơi nhiều, thì những sách và tài liệu chống cộng về mặt này hãy còn quá ít...
          Gần đây chúng tôi được đọc bài của nhà thơ Hữu Loan thuật lại chuyện cha mẹ vợ ông bị CS đấu tố chôn sống, còn cho trâu kéo bừa lên thân thể. Những chuyện thật như thế này sẽ đánh tan luận điệu của Việt Cộng rằng cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống trình chiếu thời Đệ Nhất Cộng Hòa là bịa đặt. Chuyện tưởng như hoang đường, mà lại là sự thực.
          Nếu mỗi nhà thơ, nhà văn, nhà báo của chúng ta cung cấp cho lịch sử chỉ một kinh nghiệm sống như kinh nghiệm của nhà thơ Hữu Loan, thì chẳng bao lâu huyền thoại về "cha già dân tộc" của ông Hồ sẽ tiêu tan hết.

          Trước khi chấm dứt phần V bài này, chúng tôi có một đề nghị chót. Xin các nhà đấu tranh cho dân chủ tự do ở hải ngoại hãy dặt cho các cán bộ CS trong nước những câu hỏi sau đây. Đồng thời đề nghị các cán bộ CS tự cho mình là lương thịện và từ trước tới nay luôn một lòng vì dân vì nước, chứ không vì chủ nghĩa CS hãy thành thực trả lời:
          - Ông Hồ Chí Minh có phải là người Cộng Sản không?
          - Tại sao ông ấy lại luôn chối mình không phải Cộng Sản, trước người Hoa, người Mỹ, người Pháp và cả người Việt (với những người như Trương Phát Khuê, Archimedes Patty, Lasan)?
          - Tại sao ông Hồ phải tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản ngày 11-11-1945?
          - Tại sao ông vẫn đánh lừa nhân dân để đảng đó sinh hoạt như chưa hề bị giải tán?
          - Tại sao năm 1960, đảng CSVN mừng 30 tuổi? Và ngày nay ai cũng biết đảng CSVN đã 77 tuổi?
          - Ông Hồ và đảng CS nói dối, lừa dối toàn dân và dư luận thế giới nhằm mục đích gì? Có phải vì các người biết nhân dân Việt Nam không ưa Cộng Sản?
          - Hay vì các người muốn che giấu bộ mặt thật của mình.
          - Tại sao lại phải che giấu?
          - Ngày nay các người đã thấy chủ nghĩa CS là sai, là xấu rồi chứ, hay vẫn còn nghĩ nó tốt, chỉ có người áp dụng nó làm bậy?
          - Các người có biết theo đúng thuyết Mácxít thì sau khi khối Cộng toàn thắng trên thế giới, thế giới sẽ thành thế giới đại đồng, không còn biên giới quốc gia, không còn cái gọi là nước Việt Nam nữa, nghĩa là sẽ là một thế giới vô tổ quốc?
          - Các người có biết rằng, nếu Liên Xô không tan rã cùng với sự sụp đổ hoàn toàn của khối Cộng Sản Đông Âu, mà vẫn còn tồn tại, thì Việt Nam ngày nay sẽ chỉ là một chư hầu của Liên Sô, thậm chí tên Việt Nam không còn trên bản đồ thế giới nữa...?
          - Phong trào gọi là Xô Viết Nghệ Ttĩnh, với khẩu hiệu Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, có phải là con đẻ của chủ nghĩa CS không, có phản ánh đúng chủ trương đấu tranh giai cấp không?
          - Nó có vì mục đích dành độc lập, thống nhất cho tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam không?
          - Những chiến dịch Giảm Tô Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện có phải để dành độc lập hay là để thực hiện thuyết  giai cấp  đấu tranh của CS?
          - Ngày nay các người có còn nghĩ thế giới đại đồng của Cộng Sản là có khả năng thực hiện, hay đã nhận ra rằng nó chỉ là không tưởng, là hão huyền?
          - Các người có dám can đảm nói lên những điều mình nghĩ không?
          - Một người CS như Hồ Chí Minh, khi vừa trở về nước, thấy núi cao đặt tên là núi Các Mác, thấy suối đẹp gọi nó là suối Lênin. Rồi khi chết dối lại rằng mình đi gặp các cụ Mác cụ Lê thì con người ấy có thể chối mình không phải Cộng Sản không?
          - Họ Hồ lấy bút hiệu Trần Dân Tiên để khen mình khiêm nhường, nhân ái, bảo toàn dân gọi mình là "cha già dân tộc". Vậy ông ta có thể là người khiêm nhường, ngay thẳng, chân thành chăng?
          - Những nhà báo nước ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh là người không hề có tật sùng bái cá nhân như David Halberstam, khi biết rõ ông Hồ viết sách để tự tôn sùng mình là cha già dân tộc, mà không lên tiếng nhận mình lầm, có phải là nhà báo có liêm sỉ không?


          Trước khi kết luận, chúng tôi thấy cần nêu lên một ý kiến của một số người cho rằng, thế chiến 3 đã kết thúc rồi, Khối Cộng đã thua rồi, nay không cần tìm hiểu về cuộc chiến đó nữa. Để làm gì? Thưa nếu để đánh CS ở Nga, ở Đông Âu, thì đúng là không cần. Nhưng  mặc dù sau 1991 thế chiến III coi như chấm dứt, nhưng chiến tranh ý thức hệ vẫn còn tại Việt Nam. Vì CS VN vẫn áp dụng chiến pháp muôn thuở của CS là tuyên truyền xuyên tạc, xâm nhập, tình báo, phá hoại các tổ chức của phe Quốc Gia, của những tổ chức bất đồng chính kiến. Nhất là không bao giờ mở rộng dân chủ tự do, trái lal5i luôn luôn bằng mọi phương pháp bạo lực duy trì và củng cố độc quyền cai trị, tức cái mà Mác và Lênin gọi là "quyền chuyên chính vô sản"
           Đáng buồn là lúc này xem ra thế giới tự do không còn cùng với người QG VN chống Cộng nữa. Mà chỉ còn chúng ta chống CSVN thôi.   Nếu thế giới có tiếp tay với chúng ta thì họ chỉ nhân danh nhân quyền, tư do dân chủ chứ không phải cùng sát cánh chống chủ nghĩa CS là tai họa của nhân loại như khi còn Cộng Sản Liên Xô và Đông Âu nữa.
          Căn cứ vào phản ứng dè dặt, nếu không muốn nói là lấy lệ, của chính quyền Mỹ trước những đàn áp của VC trong năm qua ta thấy mong chờ ỏ ngoại bang, dù là Hoa Kỳ đẻ áp lực đủ mạnh hòng làm thay đổi được thể chế chính trị ở VN trong lúc này là ảo tưởng.
Do đó cần phải  nhắm vào các thành phần dân chúng và cả một số nhân vật cầm quyền mới mong đi tới một kết quả nhất định về lâu về dài. Và để làm được điều đó phải có một kế hoạch thay đổi tư duy và nhận thức của giới trí thức trong nước về vai trò của ông Hồ Chí Minh và mục tiêu đích thực của ông ta trong cuộc chiến đẫm máu ba chục năm. Vai trò của ông Hồ với tư cách là người lãnh đạo cuộc chiến tranh gọi là giải phóng hay dành độc lập đã khiến cho Việt Nam không giống bất cứ nước nào ở Đông Âu. Do đó lý luận rằng Đông Âu đã sụp đổ thì CS Việt Nam cũng chẳng bao lâu sẽ tan biến không có tính thuyết phục. Lý do: Liên Xô và Đông Âu không có cuộc chiến chống thực dân đô hộ gần 100 năm như Việt Nam. họ cũng không có một lãnh tụ CS có công giành độc lập, không có thần tượng anh hùng cứu quôc, không có "cha già dân tộc". Vì thế mà phải đặt cuộc chiến VN vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ, để thấy được thực chất của chiến tranh VN và vai trò đích thực của: Hồ Chí Minh và đồng đảng. Đặt cuộc chiến VN vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu thì sẽ thấy rõ: Hồ Chí Minh và đảng CS VN đứng chung với QTCS chống nhân loại, trong đó có dân tộc VN, chứ không đứng chung với khối dân tộc chống xâm lăng. Chính HCM và đảng CS VN đã cùng với QTCS xâm lăng miền Nam Việt Nam và phá hủy mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Kết luận      

          Tóm lại, chiến tranh ý thức hệ do ý thức hệ Cộng Sản mà có. Nó do chính người Cộng Sản chủ trương chống nhân loại. Cuộc chiến Việt Nam nằm trong cuộc chiến ý thức hệ đó. Vì Hồ Chí Minh và một số đông đảng viên CS Việt Nam được đào tạo tại trường Staline của Quốc Tế 3, tức của Liên Xô, đã theo chỉ thị và kế hoạch của Liên Xô đưa chủ ngh ĩa CS vào Việt Nam, lập nên đảng CS Đông Dương để truyền bá chủ nghĩa Cộng Sản, để thực hiện mộng thế giới đại đồng, trong đó sẽ không còn biên giới quốc gia, không còn Tổ Quốc. Và thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam đã thi hành đúng theo kế hoạch và gương của Liên Xô và các nứoc CS khác, là lập nên Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cải Cách Ruộng Đất, hợp tác hóa nông, công, thương nghiệp v.v...Tất cả những công trình này hoàn toàn nằm trong chương trình xích hóa toàn cầu của Quốc Tế Cộng Sản, đứng đầu là Liên Xô, và trên thực tế đó cụ thể là Liên Xô.
          Vậy Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam chiến đấu hao tổn hàng triệu sinh mạng, không phải vì quyền lợi tổ quốc, mà chính vì để đoạt chính quyền hòng tiến  hành thực hiện mộng thế giới đại đồng. Một ảo mộng, không tưởng, nếu khối cộng thắng thì đã đưa Việt Nam và cả nhân loại lùi vè thời kỳ đồ đá. Bởi vì tất cả các nước Cộng Sản, thường gọi là các nước xã hội chủ nghĩa "anh em" khi áp dụng kinh tế chỉ huy theo mô hình Mácxít đều dìm cả nước xuống đói nghèo, không ngóc đầu lên được. Về văn hóa, đạo lý thì suy đồi đến cùng độ.
          Như vậy thì không thể nào bảo ông Hồ hay đảng CSVN có công to lớn đối với dân tộc được. Chỉ cần nghe lời Khrutshchev ca tung ông Hồ và bảo nhân dân VN dưới sự lãnh đạo của ông Hồ "đang hy sinh mạng sống mình cho chủ nghĩa CS", đủ rõ ông ta và đảng của ông ta chỉ có công với Cộng Sản, chứ không hề có công với dân tộc. Chúng ta phải kết tội ông ta đã hy sinh dân tộc cho một chủ nghĩa ngoại lai, không tưởng, cho ý đồ xích hóa nhân loại.
          Nhìn qua lăng kính chiến tranh ý thức hệ CS toàn cầu, chẳng những vai trò và công tội của Hồ  được minh định rõ ràng chính xác, mà vai trò, công lao của Tổng Thống Nixon cũng được xác định. Qua lăng kính đó cuộc chiến Việt Nam sẽ phải gọi là chiến tranh quốc cộng, chứ không thể là chiến tranh Việt Pháp như giáo sư Lê Xuân Khoa viết, hay chiến tranh chống Mỹ cứu nước như Việt Cộng viết. Qua lăng kính đó chúng ta cũng sẽ hiểu vì sao anh em ông Diệm đãng bằng mọi cách cố tránh sự can thiệp ồ ạt của quân tác chiến Mỹ, khi chưa thực cần kíp; tại sao họ tính chuyện tiếp xúc với Hà Nội, bàn chuyện hiệp thương, mặc dầu toan tính những chuỵện đó vô cùng nguy hiểm đến sự tồn vong và tính mạng của mình. 12 năm sau chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và chính phủ Hoa Kỳ cũng đâu có tránh được truyện hòa đàm với đối phưong. Rồi đến lượt Tổng Thống Mỹ Nixxon cũng hội đàm thương thuyết voới Liên Xô và Trung Cộng để đi đến hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược gọi là Salt2, và thông cáo chung Thượng Hải v..v... Và rồi tổng thống Nam Hàn Kim Đại Trọng (Kim Dae-Jung) cũng đi gặp chủ tịch Bắc Hàn năm 2000 và đến nay đương kim Tổng Thống Roh Moo- Hyun cũng thế. Như vậy có phải ông Diệm đã là người đi tiên phong áp dụng chiến pháp phi quân sự trong chiến tranh ý thức hệ không? Nếu không hiểu ý nghĩa và thực chất của chiến tranh ý thức hệ, thì sẽ bảo Tổng Thống Nixon, hay Tổng Thống Diệm, các Tổng Thống Nam Hàn mắc mưu Cộng Sản, không có kinh nghiệm về đánh đánh hòa hòa của CS. Đó là chúng tôi nói đến các cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Bush cha, rồi Giáo Hoàng John Paul II với lãnh tụ Liên Xô Maikael Gorbachev sau này. 
          Khi một số lớn đảng viên nhìn ra thực tế đó, nhờ được đồng bào hải ngoại ôn tồn, khôn khéo thuyết phục, thì sớm muộn gì cũng sẽ có ngày tượng ông Hồ bị đánh sập khắp nơi trong nước, chẳng khác gì tượng Lênin ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Lúc đó sẽ là lúc toàn dân thông cảm nhau. Cái gọi là cố gắng hòa hợp hòa giải, sẽ tức khắc thành tựu. Có thế nước mới phú cường thịnh vượng bù đắp cho những năm ngắc ngoải, trì trệ vì một ý thức hệ ngoại lai không tưởng.


          Chú thích:
(1) Xin xem Văn Nghệ Tiền Phong năm 2002.   
(2) Xin xem Nhật báo Người Việt các ngày 28-2-05 và 22-3- 05, mục Diễn Đàn.
(3) Một trong những lý do khiến chúng tôi chưa đưa ra một định nghĩa về chiến tranh ý thức hệ là vì đã có rất nhiều người nhắc đến những từ này, nếu đặt vấn đề một cách nghiêm túc nhưng cũng chỉ nhắc lại những từ đó, thì sẽ bị độc giả chê rằng, biết rồi khổ lắm nói mãi.
(4) Nói là ý thức hệ Cộng Sản cho gọn. Chứ thực ra ý thức hệ Cộng Sản có rất nhiều nội dung khác nhau và phức tạp kể từ nhi Mác và Ăng Ghen đưa ra cái gọi là chủ nghĩa Mácxít, không có tên Ăng Ghen trong đó, nhưng thực ra Ăng Ghen là bạn thân của Mác đóng một vai trò rất quan trọng không kém Mác bao nhiêu.. Rồi đến Lênin, ngưòi đã áp dụng thuyết Mácxít vào thực tế chính trị lịch sử một cách quyết định khiến ý thức hệ của Mác sau này mang danh xưng chủ nghĩa, hay ý thức hệ, Mác-Lênin. Rồi còn ý thức hệ CS của Trotsky, của Mao Trạch Đông đều có chút gì thay đổi không hoàn toàn như ý thức hệ Mác Xít ban đầu nữa. Nhưng tất cả đều là thứ yếu. Cái cốt lõi là giai cấp đấu tranh, xóa bỏ quyền tư hữu, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản thì đều giống nhau. 
(5)   Nói về trận chiến tư tưởng bắt nguồn từ ý thức hệ Mácxít cần có cả một bộ sách nhiều tập. Ở đây chỉ xin nêu một vài tên tuổi nổi bật ở phía Thế Giới tự do:
 --- Giáo Hoàng Pio IX (1792- 1878): Trong Tông Huấn (Papal Encyclical) "Qui Pluribus" ngày 6-11- năm 1846, bản Anh ngữ, đoạn 32 có câu: "It is wholly contrary to natural law itself nor could it establish itself without turning upside down all rights, all interests, the source of property and society itself" (tạm dịch: (Cái tà đạo được mệnh danh là chủ nghĩa Cộng Sản này) chính nó hoàn toàn trái luật tự nhiên. Nó không thể nào thành lập mà không đảo lộn tất cả mọi quyền hành, quyền lợi, của cải và sản nghiệp của con người và cả xã hội.)
--- Eugene von Bohm Bawerk (1851- 1914) nổi tiếng với tác phẩm trứ danh Karl Marx and the chose of his system (1898), trong đó ông dành chương đầu để cực lực đả phá thuyết giá trị thặng dư (plus value) của Mác. Cho đến nay đã có 67,000 cuốn sách và khỏang 1,500,000 bài viết nói về ông.
---V. Simkhovich được biết nhiều qua tác phẩm "Chủ nghĩa Mác chống chủ nghĩa xã hội". Ông trưng dẫn chính Mác để chứng minh cái gọi là chủ nghĩa xã hội của Mác đã phản lại lý tưởng xã hội của loài người.
--- Edward Bernstein (1850-1932), cha đẻ phong trào xét lại ý thức hệ cộng Sản. Chẳng những ông đả phá thuyết giá trị thặng dư (Plus Value) và chủ trương đấu tranh giai cấp  của Mác mà còn bác bỏ hoàn toàn khẳng định của Mác là tư bản đang giẫy chết.
          (6)  8 người mà chúng tôi được biết đã gọi cuộc "chiến tranh lạnh" sau thế chiến II là thế chiến III gồm có: Giáo Sư Robert Strausz-Hupé và 3 đồng tác giả cuốn Protracted Conflict, người điểm cuốn sách đó là Max Eastman, nhà văn phản kháng Nga giải Nobel Alexander Solzhenitsyn, Brian Crozier, tác giả cuốn Strategy of survival, và cố Tổng Thống Richard M. Nixon.
          Nói về giai đoạn gọi là chiến tranh lạnh này cũng cần có một bộ sách nhiều tập vì nó bao quát nhiều mặt, rộng lớn hơn thế chiến II bội phần. Sự thành hình, phát triển và hoạt động của mỗi đảng trong tổng số 87 đảng CS trên khắp thế giói đã chiếm một chương rồi. Mỗi hiệp ước ký kết giữa thế giới tự do và  khối Cộng như Potsdam, Yalta, Munich hay Brest-Litovsk v.v....cũng phải một chương. Mỗi chương trình kế hoạch của Thế giới tự do như kế hạch Marshall nhằm cung cấp viện trợ 20 tỷ Mỹ Kim cho 16 nước Tây Âu hòng lôi kéo giới nghèo, giai cấp lao động trong các nước đó, nhất là Đức, Ý  là hai nước bại trận, và có nhiều đảng viên Cộng Sản (Ý) nhiều nhất thế giới. Rồi mỗi bước đi của Khối Cộng nhằm bành trướng chủ nghĩa CS như nhắm vào lục địa Trung Hoa, vào Trung Mỹ... hay nhằm bảo vệ khối cộng như tổ chức Comecon (Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế) ở Đông Âu.....đều cần có một chương....Đó là không kể những trận chiến vũ trang tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam phải gồm nhiều chương lớn khác.
          Công việc đó không nằm trong khuôn khổ một bài bào báo như bài này. Xin để cho các sử gia thế chiến III đảm nhiệm.
(7) Xem The Real War của Nixon, NXB Warner Books Inc. NY, 1980, trang 17
(8) Theo Seth Jacobs, tác giả cuốn "America's Miracle Man in Vietnam, Tổng thống Eisenhower đã  nhận Phép Rửa (Baptism) tại tòa Bạch Ốc.
(9) NXB Warner Books Inc, NY, 1980, trang 21.
(10) NXB Simon and Schuster, N.Y. 1988
(11) Xin xem Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê của Minh Võ, lần in thứ 3 năm 2002, trang 319 và 334.
(12) Trong chương 43, cuốn Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp, chúng tôi đã phân tích vấn đề này. Ở đây xin miễn nhắc lại.
(13) Cho đến năm 1960 thì số các đảng CS trên toàn thế giới đã tăng lên đến 87.
(14) Theo thuyết Mácxít thì chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ "quá độ", tức chuyển tiếp, giữa chế độ tư bản và chế độ CS. Chỉ khi nào giai cấp vô sản toàn thắng trên khắp thế giới thì chủ nghĩa CS mới được thành lập.
(15) Trong bài viết về việc Miền Nam mất vào tay CS, đăng trên báo Le Monde ở Pháp, ngày 1-5-1975.
(16) Hội nghị Thượng Hải giữa Nixon và Chu Ân Lai năm 1972. Hội nghị Băng Đung giữa Ấn Độ, Trung Quốc, Indonedia, Ai Cập, Nam Tư năm 1955. Hội nghị 2 K tại Vienna giữa Tổng Thống Kennedy và bí thư thứ nhất Khrutshchev năm 1960.
(17) Mà họ thường nói văn hoa là "chủ nghĩa yêu nước" (patriotism. Cứ thấy từ nào tận cùng bằng ism thì dịch là chủ nghĩa!)
(18) Hai cán bộ văn hóa trong nước tên Nguyễn Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến.