Tuesday, June 19, 2012

CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG TOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI

CHIẾN TRANH VIỆT NAM

TRONG TOÀN CẢNH CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI

Trần Gia Phụng

                                                                                            

Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975.  Cuộc chiến nầy là cuộc chiến phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam, xen lẫn nhiều yếu tố chính trị quốc tế lồng trong chiến tranh lạnh toàn cầu giữa hai khối tư bản và cộng sản.  Vì vậy, để góp phần soi rõ chiến tranh Việt Nam vừa qua, thiết tưởng nên đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới. 

 

1.-   VẬN MỆNH VIỆT NAM TRONG TAY NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Trong điều 1 hòa ước Pháp Việt ngày 6-6-1884, có đoạn nguyên văn như sau: “…Nước Pháp đại diện cho nước Nam trong các việc giao dịch với nước ngoài…”  Như thế có nghĩa là từ năm 1884 tất cả những vấn đề ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp quyết định. 

Đến thế chiến thứ hai (1939-1945), đế quốc Nhật Bản thao túng Đông Dương từ năm 1940, nhưng mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật Bản mới đảo chánh, lật đổ Pháp.  Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945.  Tuy nhiên nền độc lập quá mong manh, vì vua Bảo Đại dựa vào Nhật, mà Nhật sắp thất trận.

Sau khi Đức đầu hàng ngày 7-5-1945, nguyên thủ các nước Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp hội nghị thượng đỉnh tại thị trấn Potsdam (gần Berlin,thủ đô nước Đức), từ ngày 17-7 đến 2-8-1945,  có mục đích bàn về các vấn đề hậu chiến tại Đức.  Hoa Kỳ thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 16-7, nên chọn ngày 17-7 để bắt đầu hội nghị Potsdam, nhằm tăng uy lực cho Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết.  Bên cạnh đó, cũng tại Potsdam, đại diện Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc (không họp hội nghị Potsdam, nhưng đồng ý qua truyền thanh) cùng gởi một tối hậu thư cho Nhật Bản ngày 26-7-1945.  Lúc đó, Nhật Bản còn tiếp tục chiến đấu ở Á Châu.  Liên Xô không tham dự vào tối hậu thư vì Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu và chưa tuyên chiến với Nhật Bản. 

Tối hậu thư nầy, thường được gọi là tối hậu thư Potsdam, buộc Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện, chấp nhận những điều kiện của Đồng minh, như chấm dứt quân phiệt, giải giới quân đội, từ bỏ đế quốc... Cũng theo tối hậu thư Potsdam, tại Đông Dương quân Nhật sẽ bị giải giới do quân Trung Quốc ở bắc và do quân Anh ở nam vĩ tuyến 16.  Như thế, qua tối hậu thư Potsdam, các cường quốc tự ý quyết định tương lai chính trị cho Việt Nam mà không có đại diện của Việt Nam.   

Tối hậu thư Potsdam không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho tương lai Đông Dương.  Phải chăng các cường quốc cố tình tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị ở Đông Dương, nhằm sử dụng Đông Dương làm chiến lợi phẩm đổi chác với nhau, hay đổi chác với Pháp?  Nhân cơ hội nầy, Pháp hết sức vận động với cả hai nước Anh và Trung Quốc để Pháp tái lập quyền bảo hộ Đông Dương.

Ngay sau khi Nhật Bản  đầu hàng ngày 14-8-1945, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) điều khiển, nhanh tay cướp chính quyền và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945.  Trong khi đó, để giải giới quân đội Nhật, tướng Douglas Gracey chỉ huy quân Anh đến Sài Gòn ngày 13-9-1945 và tướng Lư Hán cầm đầu quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc đến Hà Nội ngày 14-9-1945. 

Pháp ký với Anh Tạm ước về hành chính và tư pháp tại London ngày 8-10-1945, theo đó Anh giao quyền cho Pháp cai trị phía nam vĩ tuyến 16 ở Việt Nam. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, tr. 275.)  Sau đó, Pháp ký với Quốc Dân Đảng Trung Quốc hiệp ước tại Trùng Khánh (Chongqing) ngày 28-2-1946, nội dung là Trung Quốc chịu cho quân Pháp thay thế ở bắc vĩ tuyến 16, và ngược lại Pháp nhường cho Trung Quốc nhiều quyền lợi kinh tế ở Bắc Kỳ cũng như ở Trung Quốc.(Chính Đạo, s đd. tr. 311.)  Như thế các nước Anh, Trung Quốc, Pháp xem Việt Nam như một món hàng trao đổi, buôn bán với nhau.

 

2.-  VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Sau khi Nhật Bản đầu hàng (14-8-1945), thế chiến thứ hai chấm dứt.  Các nước thắng trận chia thành hai khối:  một bên là Hoa Kỳ cùng các nước Tây Âu theo chủ nghĩa tư bản, và một bên là Liên Xô cùng các nước Đông Âu do Liên Xô mới chiếm đóng, theo chủ nghĩa cộng sản.  Hai khối tư bản và cộng sản tranh chấp quyết liệt trên tất cả các lãnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự; tăng cường sức mạnh cho mình và khối của mình, đồng thời tìm cách làm suy yếu khối đối phương.  Tuy nhiên hai bên tránh đụng độ trực tiếp với nhau vì cả hai bên đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai bên đều thiệt hại thảm khốc.  Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy gọi là chiến tranh lạnh. (Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 29-8-2040.)

Trong khi đó, sau thế chiến thứ hai, phong trào giải thực chống đế quốc lan tràn khắp nơi.  Lợi dụng hoàn cảnh nầy, Liên Xô tiếp tục chủ trương xuất cảng cách mạng, xúi giục và giúp đở các nước nhỏ bị các nước Tây phương đô hộ vào thế kỷ trước, đứng lên giành độc lập, rồi sau đó gia nhập khối Liên Xô.  Các cuộc võ trang nổi dậy, hoặc các cuộc nội chiến tranh chấp quyền lực, tạo nên những cuộc chiến cục bộ, là những điểm nóng địa phương trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

Ở Á Châu, sau thế chiến hai, các điểm nóng quan trọng là Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam.  Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Quốc tái diễn ngày 20-7-1946.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thành công, lập ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) ngày 1-10-1949.  Sự ra đời của CHNDTQ tăng cường sức mạnh cho khối CS và gây nhiều ảnh hưởng ở Á Châu.

Trước sự thành công của đảng CSTQ, Hoa Kỳ rất lo ngại sự bành trướng của CS ở Á Châu.  Từ tháng 1-1950, thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy, thuộc đảng Cộng Hòa, tiểu bang Wisconsin, phát động chiến dịch “tố cộng”, thịnh hành đến nỗi người ta còn gọi là chủ thuyết McCarthy (Carthyism). 

Tại Triều Tiên, sau thế chiến thứ hai, Triều Tiên được chia ở vĩ tuyến 38: phía Bắc do Liên Xô tạm chiếm và phía Nam do Hoa Kỳ tạm chiếm.  Tại miền Nam, năm 1948 quốc hội được bầu ra và soạn thảo hiến pháp, công bố thành lập Cộng Hòa Triều Tiên (Republic of Korea), thủ đô là Hán Thành (Seoul).  Tại miền Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Democratic People's Republic of Korea) được thành lập ngày 9-9-1949, thủ đô là Bình Nhưỡng (Pyong-yang).  Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên ngày 25-6-1950.  Nam Triều Tiên được Hoa Kỳ giúp đỡ, vận động đưa quân Liên Hiệp Quốc (LHQ) chống Bắc Triều Tiên.  Sau thời gian đánh qua, đánh lại, ngày 27-7-1953, hai bên Nam và Bắc Triều Tiên đình chiến và trở lại vị trí trước chiến tranh ở vĩ tuyến 38 Bắc. 

Tại Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của Anh, quân Pháp chiếm Nam Kỳ, rồi tiến ra Trung và Bắc Kỳ, đe dọa chính phủ VNDCCH.  Hồ Chí Minh nhượng bộ, ký thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946, sẵn sàng tiếp đón quân Pháp đến thay thế quân Trung Quốc để giải giáp quân Nhật (điều 2), trái với lời Hồ Chí Minh thề khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2-9-1945: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.)  Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (Modus Vivendi) tại Paris tối 14-9-1946 với Marius Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, gồm 14 điều khoản, một lần nữa nhượng bộ để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam.

Sau hai hiệp ước nầy, quân Pháp đến Bắc Kỳ càng ngày càng đông.  Tại Hà Nội, tự vệ VM dựng nhiều rào cản, gây trở ngại.  Quân Pháp gởi tối hậu thư cho VM ngày 18-12-1946, báo rằng nếu VM không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946.  Nếu quân Pháp giữ gìn an ninh Hà Nội, thì toàn bộ lãnh đạo VM, đảng CSĐD và cả Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đều nằm trong tay Pháp.  Không thể để bị Pháp bắt và cũng không thể tự nhiên bỏ trốn khỏi Hà Nội, Hồ Chí Minh liền hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp tối 19-12-1946, nhằm tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh và lãnh đạo CS thoát thân khỏi Hà Nội mà không bị tai tiếng chạy trốn.  Từ đó bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp.  

Vì không biết bị Hồ Chí Minh phỉnh gạt, lúc đầu toàn dân Việt Nam hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng càng ngày Hồ Chí Minh và mặt trận VM càng để lộ chân tướng cộng sản, nên các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh cựu hoàng Bảo Đại.  Bảo Đại thương thuyết với Pháp, đưa đến kết quả là cựu hoàng Bảo Đại ký kết với tổng thống Pháp Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN), chống lại VNDCCH.  Từ nay, cuộc kháng chiến chống Pháp biến thành của chiến tranh Quốc Cộng.  

Sau sự kiện trên, chiến tranh Việt Nam bước vào một giai đoạn mới khi Trung Quốc (ngày 18-1-1950), rồi Liên Xô (ngày 30-1-1950) thừa nhận VNDCCH; trong khi Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950), rồi Anh Quốc (ngày 7-2-1950) thừa nhận QGVN.  Các cường quốc càng ngày càng góp lửa vào chiến tranh Việt Nam.  Nhờ sự viện trợ về mọi mặt của Liên Xô và nhất là Trung Quốc (nước láng giềng phía bắc), Hồ Chí Minh và đảng CSVN thắng thế, cao điểm là trận Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.

Trước tình hình mới, các cường quốc lại họp nhau tại Genève từ ngày 8-5-1954, tìm giải pháp cho chiến tranh Việt Nam.  Theo giải pháp chia hai Triều Tiên, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954 tại Genève, chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam do Bảo Đại làm quốc trưởng.  Một lần nữa, số phận Việt Nam do các cường quốc sắp đặt với nhau, và buộc hai phe Việt Nam chấp hành.

Trước khi ký kết hiệp định Genève, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc mời Hồ Chí Minh sang Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây, họp từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954.  Tại đây, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai nước Việt Nam do các cường quốc đưa ra, đồng thời Chu Ân Lai đưa kế hoạch cho Hồ Chí Minh rằng trước khi rút ra Bắc, Hồ Chí Minh nên gài cán bộ ở lại miền Nam, đồng thời phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến tranh.

Sau hội nghị Liễu Châu, và trước khi ký hiệp định Genève,  Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, trình bày mục tiêu chiến đấu mới của CSVN.  Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Miên Lào...Mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ...” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7: 1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 314-315.)  Lúc đó Hoa Kỳ chưa chính thức can thiệp vào Việt Nam, mà Hồ Chí Minh đã chỉa mũi nhọn vào Hoa Kỳ, chẳng qua chỉ vì Hồ Chí Minh theo chân Liên Xô và Trung Quốc, tấn công Hoa Kỳ nhằm lập công với hai nước nầy. 

Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17.  Phía bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH).  Phía nam là Quốc Gia Việt Nam và đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955.  Khi Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam Việt Nam tái thiết đất nước, chưa đem quân vào Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Xô), số đặc biệt về nước VNDCCH, rằng VNDCCH là tiền đồn của QTCS.  Như vậy là ở Đông Nam Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn của mặt trận dân chủ và hòa bình toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, 1958-1959, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 309.) 

Phát động chiến tranh tấn công miền Nam Việt Nam sau nghị quyết của Hội nghị Trung ương đảng Lao Động ngày 13-5-1959 và sau Đại hội III đảng Lao Động từ ngày 5 đến 10-9-1960, CSVN đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”.  Thực chất, Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ cho biết: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, tr. 422.)

Trong khi đó, Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo.  Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ.  Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. 

Trước sự bành trướng của CS tại Á Châu, đại diện ba nước Australia (Úc), New Zealand (Tân Tây Lan), United States of America (USA) (Hoa Kỳ) họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực.  Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa.

Sau hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954.  Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia, France, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thailand, United Kingdom (Anh), và United States of America.  Trong phụ bản của hiệp ước, ba nước Cambodia, Laos và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ.  Hoa Kỳ dựa vào phụ bản hiệp ước nầy để minh chứng  sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á. 

 

3.-   CHIẾN TRANH GIỚI HẠN TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa  được khối CSQT hậu thuẫn, quyết định tấn công VNCH năm 1960.  Việt Nam Cộng Hòa ở thế tự vệ, phải nhờ đến sự giúp sức của Hoa Kỳ và đồng minh chống lại cuộc tấn công của cộng sản.  Khi can thiệp vào Việt Nam, Hoa Kỳ nhắm mục đích chính là ngăn chận sự bành trướng của CS, nhất là của CS Trung Quốc, nhằm phòng thủ từ xa để chủ nghĩa CS không thâm nhập vào Hoa Kỳ.  Tuy nhiên, các chính phủ Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên, nên chủ trương “chiến tranh giới hạn”. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) 

Nguyên trong chiến tranh Triều Tiên, ngày 25-6-1950, Bắc Tiều Tiên (BTT) xâm lăng Nam Triều Tiên (NTT), chiếm Hán Thành.  Ngày 12-9-1950, đại tướng Douglas MacArthur cầm đầu quân đội Liên Hiệp Quốc (LHQ), đẩy lui Bắc quân, tái chiếm Hán Thành.  Ông tiếp tục truy đuổi Bắc quân, vượt vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng và tiến đến sông Áp Lục (Yalu River), vùng biên giới Trung Quốc.  Lấy cớ quân LHQ đe dọa biên giới, khoảng 250,000 chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, giúp BTT ngày 26-11-1950.   Trung Quốc dùng chiến thuật biển người, đẩy lui quân LHQ, chiếm Hán Thành.  Matthew Ridgway thay thế tướng MacArthur, cầm quân LHQ, đuổi cộng quân khỏi vĩ tuyến 38 tháng 1-1951, chứ không tiến xa lên phía bắc. 

Lần nầy ở Đông Dương, tuy Hoa Kỳ giúp VNCH chống lại CSBV, nhưng vẫn lo lắng Trung Quốc có thể dựa vào lý do Hoa Kỳ hăm dọa vùng biên giới phía nam Trung Quốc để tung quân vào Việt Nam như đã từng làm ở Triều Tiên.  Lúc đó, dân số Trung Quốc đông gấp bốn lần dân số Hoa Kỳ.  Để tránh trường hợp Trung Quốc can thiệp, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn” (limited war), tức giới hạn mục tiêu tấn công, không đánh ra Bắc, như trước đây Mac Arthur đã từng đánh ra Bắc Triều Tiên, nhất là tránh khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc.

Trong cuộc chiến từ 1960 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, CSVN vừa dùng khủng bố, vừa dùng chiến thuật du kích, rồi tiến lên chiến tranh quy ước.  Du kích là rình mò tấn công lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng đối phương.  Khủng bố nguy hiểm hơn, chẳng những là tấn công hủy diệt, mà khủng bố còn là đòn chiến tranh tâm lý cân não, uy hiếp làm cho dân chúng kinh hoàng và khiếp sợ suốt đời.  Quân đội Hoa Kỳ cũng như quân đội VNCH (khi còn được trang bị đầy đủ), đánh trả hữu hiệu những cuộc tấn công lớn của CS, nhưng không có đối sách nào có thể dẹp yên hoàn toàn được khủng bố và du kích CS.  

Ai cũng biết khủng bố, du kích và cả chiến tranh quy ước luôn luôn phải có hậu phương yểm trợ.  Khủng bố, du kích CS phát xuất từ Bắc Việt Nam.  Bắc Việt Nam hay VNDCCH chính là kẻ chủ trương, nuôi dưỡng khủng bố và du kích ở Nam Việt Nam, là hang ổ của khủng bố, du kích và quân đội chính quy CS ở miền Nam, là nguồn tiếp liệu to lớn về tất cả các mặt cho CS miền Nam.  Đánh rắn phải đánh đầu.  Bứng cây phải đào tận gốc.  Muốn dẹp khủng bố, du kích CS tại miền Nam Việt Nam, thì phải tấn công sào huyệt của khủng bố và du kích ở Bắc Việt Nam, chận đứng hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp liệu liên tục của CS, và buộc Bắc Việt Nam từ bỏ cuộc tấn công Nam Việt Nam.  Nếu không đánh Bắc Việt Nam, CS Nam Việt Nam cứ tiếp tục khủng bố và du kích không ngừng nghỉ.                                     

Các tướng lãnh VNCH thấy rõ điều nầy và nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui về phòng ngự đất Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền Nam, hoặc dựa vào đó để thương thuyết với CS, buộc CS Bắc Việt chấm dứt tiếp tế du kích miền Nam, như liên quân Liên Hiệp Quốc đã làm ở Triều Tiên. 

Tuy nhiên Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc tiến, không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng ngay các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH. 

Có thể kể các ví dụ:  Ngày 4-5-1964, trung tướng Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ Cabot Lodge mở rộng chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force - Office of the Secretary of Defence, United States - Vietnam Relations 1945-1967, Washington D.C.: 2011.  Part IV. C. 1., p. a-7.)  Trong cuộc mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến.  (John S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt.  42.)  Kết quả, Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ.  Không biết Hoa Kỳ có nhúng tay vào vụ nầy hay không? 

Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến.  Tướng Thi cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.)  Tướng Thi sau đó bị cách chức vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung.  

Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn tiến qua phía bắc vĩ tuyến 17 như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter , Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, Bắc Việt tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH.  Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý.  Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra Bắc, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.)  Cuối năm 1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.

Về Không quân, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho Không quân VNCH.  Trong năm 1965, khi mở màn tấn công Bắc Việt, các phi công VNCH lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà Tĩnh lại phải quay về liền.  Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra Bắc nữa. Khi cung cấp phản lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung cấp loại phản lực F-5 và A-37, chứa nhiên liệu ít, nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được để khỏi tấn công đất Bắc.

Theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình),  tuy nhiên kế hoạch nầy không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, tr. 288.)

Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân Bắc Việt qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh Quảng Trị, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến KANZUS, chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và bảo vệ miền Nam Việt Nam.  KANZUS viết tắt của các chữ Korea, Australia, New Zealand và United States.  Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch KANZUS bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.)  Westmoreland không giải thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ từ chối.  Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây sự hiểu lầm về sự hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự.

Rõ ràng vì chủ trương “chiến tranh giới hạn”, Hoa Kỳ không chấp nhận tất cả những kế hoạch tấn công Bắc Việt bằng bộ binh như ở Triều Tiên.  Nếu không tấn công hậu cứ CSVN ở Bắc Việt Nam để CSVN lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn khủng bố, nạn du kích ở miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của CSVN, để CSVN có thể mở những trận đánh lớn trên khắp miền Nam Việt Nam.  Các tướng lãnh cầm quân Hoa Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù được tăng cường tối đa và được trang bị tối tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận đứng thủ đoạn khủng bố và chiến tranh du kích của CSVN.

Một ví dụ cụ thể là sau biến cố ngày 11-9-2001 (Tòa Tháp đôi ở New York bị đánh sập, chết 3,000 người), chính phủ Hoa Kỳ với phương tiện lớn lao, hùng hậu, với sự tiếp tay của nhiều nước trên thế giới, mở chiến dịch truy lùng khủng bố ở Hoa Kỳ và khắp toàn cầu, tấn công hậu cứ của khủng bố ở Trung đông, Pakistan, Afghanistan, mà cuối cùng cũng chẳng diệt hết được khủng bố.    

Với kinh nghiệm về việc truy diệt khủng bố rất khó khăn sau biến cố 11-9-2001, ngày nay chúng ta mới dễ hiểu được trước năm 1975, Hoa Kỳ và VNCH chỉ hành quân bên trong lãnh thổ Nam Việt Nam, thì làm thế nào có thể tiêu diệt được khủng bố và du kích CS ở miền Nam Việt Nam mà cái đầu vốn ở miền Bắc Việt Nam? Loại khủng bố và du kích nầy còn được sự tiếp tay của toàn khối CS trên thế giới.    

Vì chủ trương chiến tranh giới hạn, Hoa Kỳ không thành công về quân sự tại Việt Nam, lại bị phong trào phản chiến trong nước chống đối mạnh mẽ, nên Hoa Kỳ tìm cách ra khỏi chiến tranh Việt Nam và cứu tù binh Hoa Kỳ về nước.  Đặc tính nổi bật của nền ngoại giao Hoa Kỳ là rất thực tế và linh hoạt, sẵn sàng thay đổi hay điều chỉnh chính sách để phù hợp với tình hình và quyền lợi của người Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ chuyển qua thế cờ mới trong chiến tranh lạnh toàn cầu.

 

4.-   THẾ CỜ MỚI TRONG CHIẾN TRANH LẠNH

Trong chiến tranh Triều Tiên từ năm 1951, hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc trực tiếp đánh nhau.  Liên Xô đứng ngoài, bảo toàn lực lượng, quan sát hai địch thủ lâm chiến tiêu diệt nhau.  Lần nầy, ở Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn”, không tấn công Bắc Việt Nam bằng bộ binh, không tiến đến biên giới Việt-Trung, không thách thức và không trực tiếp đụng độ với Trung Quốc. 

Về phía Trung Quốc, ngoài nguồn viện trợ cho Bắc Việt Nam, Trung Quốc chỉ gởi quân qua bảo vệ phía Bắc Việt Nam, chứ không tham gia chiến đấu ở miền Nam.  Quân Trung Quốc không đụng độ trực tiếp với quân Hoa Kỳ tại Việt Nam.  Vì vậy, về chính trị, lần nầy hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc chẳng trực tiếp thù oán nhau.  Hai bên có thể nói chuyện với  nhau khi có cơ hội thuận tiện, nhất là từ khi Stalin qua đời năm 1953, những tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô càng ngày càng trở nên căng thẳng. 

Về địa lý chính trị đối với Trung Quốc, Liên Xô có bom nguyên tử (năm 1949) như Hoa Kỳ, nhưng nguy hiểm hơn Hoa Kỳ vì Liên Xô ở sát biên giới Trung Quốc, và bao vây Trung Quốc dọc theo biên giới dài giữa hai bên.  Quân đội Liên Xô có thể tràn qua biên giới Trung Quốc bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.  Thực tế Trung Quốc và Liên Xô đã đánh nhau trên vùng sông biên giới Ussouri năm 1969.  Còn Hoa Kỳ ở xa, bên kia bờ biển Thái Bình, muốn đổ bộ vào Trung Quốc cũng khó khăn.

Về phía Hoa Kỳ, từ thập niên 60, những nhà nghiên cứu chiến lược Hoa Kỳ cho rằng:"Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó.  Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ." (Roger Warner, Shooting at the Moon,  Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.) Vì vậy, Hoa Kỳ bắt đầu chuyển hướng, mở những cuộc vận động ngoại giao thẳng với Trung Quốc. 

Sau nhiều cuộc thăm dò và đàm phán bí mật, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều tỏ thiện chí nhằm xích lại gần nhau.  Tháng 12-1969, Trung Quốc trả tự do cho hai người Mỹ bị bắt vì vi phạm hải phận Trung Quốc trên một du thuyền.  Ngày 20-1-1970, Lei Yang [Lôi Dương], một nhà thương thuyết Trung Quốc báo cho Walter Stoessel, đại sứ Hoa Kỳ tại Varsaw (Ba Lan), biết rằng Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ gởi một nhà ngoại giao đến Bắc Kinh để bàn luận về những vấn đề liên hệ song phương.  Ngày 10-7-1970, Trung Quốc thả giám mục Ky-Tô giáo La Mã, James Walsh, người Hoa Kỳ, thuộc dòng Marydnoll (Hoa Kỳ).  Ông bị bắt năm 1958 và bị kêu án 20 năm cấm cố từ năm 1960. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 182.)        

Trong cuộc phỏng vấn trên tạp chí Time ngày 5- 10-1970, tổng thống Nixon tuyên bố: “Nếu có điều gì tôi muốn thực hiện trước khi từ trần, thì đó là đi thăm Trung Quốc.”  Mao Trạch Đông đáp ứng ngay.  Qua cuộc phỏng vấn của Edgar Snow ngày 18-12-1970, Mao Trạch Đông hoan nghênh việc Nixon thăm Trung Quốc dù với tư cách là một tổng thống hay một du khách. 

Ngày 14-4-1971, tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. 

Ngày 9-7-1971, trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến.  Ngoài những vấn đề song phương và thế giới, Kissinger còn thảo luận với Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam và cho Chu Ân Lai biết: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi.  Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình  người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr. 617.)  Trong cuộc họp hôm sau (10-7-1971), Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị.  Không phải là để chúng tôi có thể trở vào  lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ... Hôm qua, tôi đã thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn,  mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)

Lót đường cho cuộc bang giao với Trung Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, không phủ quyết cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó CHNDTQ được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Đài Loan.  Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm CHNDTH một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới”.  Trong cuộc họp đầu tiên với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lãnh đạo nào của Bắc Việt Nam, và cùng nhau bàn bạc  về việc đình chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó...  Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau - như cách nói của Thủ tướng - và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh.  Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 627.)

Thế là xong, số phận Việt Nam lại do Hoa Kỳ và Trung Quốc quyết định và trao đổi với nhau.  Dĩ nhiên hai nước nầy quyết định theo quyền lợi của nước họ và bất cần quyền lợi của các đồng minh.  Những diễn tiến sau đó thì mọi người đều biết.  Hoa Kỳ ngưng cung cấp đạn dược, nhiên liệu cho quân đội VNCH.  Thế là VNCH hết phương tiện chiến đấu, phải buông súng.   

 

5.-  PHE NÀO THẮNG NHÂN DÂN ĐỀU THẤT BẠI

Trong cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam, nếu nhìn cục bộ và ngắn hạn vấn đề Việt Nam, thì rõ ràng Bắc Việt Nam tức VNDCCH hay CSVN thắng lớn; Nam Việt Nam tức VNCH thất bại hoàn toàn và Hoa Kỳ kể như thua vì không thành công trong việc giúp VNCH chống CSVN ở miền Nam Việt Nam.  Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện cuộc chiến từ năm 1945 cho đến năm 1975 và đặt cuộc chiến Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới cho đến ngày nay, thì lẽ thắng thua có phần khác.

Trước hết, để đi đến chiến thắng, CSVN phải cầu viện Liên Xô và Trung Quốc về mọi mặt.  Vay thì phải trả.  Không có gì để trả, CSVN lấy tài sản, đất đai tổ tiên để trả nợ.  Đây là tội phản quốc không thể tha thứ, nặng nề hơn và tệ hại hơn bất cứ tội phản quốc nào đã qua trong lịch sử Việt Nam.  Chiến thắng rồi rước tên ăn cướp vào phá nhà, để nó cướp mất đất của tổ tiên thì có phải là chiến thắng không?

Trung Quốc vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu sau khi nội chiến Quốc Cộng chấm dứt năm 1949.  Do chiến tranh Việt Nam, khi ngồi vào bàn Hội nghị Genève năm 1954, Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô.  Vào đầu hội nghị Genève 1954, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles không thèm bắt tay xã giao với Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trung Quốc. (Henry Kissinger, White House Years, Toronto: Little, Brown and Company, 1979, p. 1054.)  Thế mà gần 20 năm sau, do chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc và mở cửa cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc giữ ghế đại diện tại LHQ, thay thế Đài Loan năm 1971.  Trong cuộc gặp gỡ năm 1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tặng cho Trung Quốc một món quà lớn: Hai bên ký bản thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, theo đó, Hoa Kỳ xác nhận trong điều thứ 12 của thông cáo chung, rằng chỉ có một nước Trung Quốc, và Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. 

Chẳng những hưởng lợi về ngoại giao và lãnh thổ, Trung Quốc còn nghiễm nhiên trở thành chủ nợ của CSVN và xem CSVN như là chư hầu, buộc CSVN chạy theo chính sách của Trung Quốc, ép Việt Nam phải ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan (1999) và nhượng 10,000 Km2 mặt biển vịnh Bắc Việt (2000).

Cộng sản VN khoe rằng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.  Hoa Kỳ không chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, được kể là thua trận.  Hoa Kỳ mất 58,000 quân ở Việt Nam, nhưng khi quay lưng rời khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ chẳng mất một tấc đất nào của Hoa Kỳ, mà cũng chẳng một tấc đất nào của Hoa Kỳ bị bom đạn quấy rầy.  Chính sách của Hoa Kỳ từ trước đến nay là phòng thủ từ xa.

Mục đích ban đầu của Hoa Kỳ là đến Việt Nam để ngăn chận làn sóng CS, nhất là Trung Quốc, phòng thủ từ xa chống lại sự thâm nhập của CS vào Hoa kỳ.  Do chiến tranh Việt Nam, các nước Đông Nam Á có thời giờ xây dựng và củng cố vòng đai phòng tuyến chống cộng, từ Thái Lan, Mã Lai đến Phi Luật Tân, Indonesia.  Cũng từ chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc, tách Trung Quốc ra khỏi liên minh với Liên Xô.  Như thế Hoa Kỳ cũng đã đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra.  Sau năm 1975, CSVN trải thảm đỏ rước Hoa Kỳ trở lại Việt Nam.  Rõ ràng Hoa Kỳ không “cút”, mà còn mạnh hơn trước.                                               

Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn thất bại, bị CS gọi là “ngụy”.  Quân đội VNCH đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ nền dân chủ tự do son trẻ của miền Nam Việt Nam.  Sau thời kỳ quân chủ và thực dân đô hộ Việt Nam, sự hiện diện chuyển tiếp trong 21 năm của QGVN rồi VNCH ở miền Nam Việt Nam, tuy ngắn ngủi nhưng là bước mở đầu cho con đường dân chủ hóa Việt Nam.  Chính thể VNCH đã gieo mầm tự do, dân chủ, dân quyền, nhân quyền, cho người Việt Nam.  Ngược lại, trong chừng đó năm ở Bắc Việt Nam và cả cho đến bây giờ, người dân dưới chế độ CS chưa bao giờ được nghe nhắc đến “Bản tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền” ngày 10-12-1948 của LHQ, chứ đừng nói gì chuyện thực thi dân quyền và nhân quyền.  Sau năm 1975, người miền Bắc dưới chế độ CSVN bỏ nón cối, bỏ dép râu, bỏ đại cán và ăn bận theo người miền Nam.  Dân chúng Việt Nam hiện nay đang ước mong bài học dân chủ VNCH trở lại.  Còn  nhà nước CSVN thì kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” quay về giúp nước.  Như thế sao có thể gọi VNCH là “ngụy”?  Có thể nói VNCH  không “ngụy”, không “nhào”, mà vẫn hiện diện ở Việt Nam. 

Người xưa viết: "Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (Một viên tướng thành công có hàng vạn người chết.)  Ngày nay, nhà thơ Nguyễn Duy diễn đạt một cách khác nhưng không kém phần bi đát: “Xin tạc vào đá nầy lời chúc hòa bình/ Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / Phe nào thắng nhân dân đều thất bại...” (Nguyễn Duy, “Đá ơi”, Cambodia 28-8-1989.)  Vâng, do CSVN gây chiến, hơn ba triệu người Việt Nam đã nằm xuống và dân tộc Việt Nam đau đớn mất đi một phần đất đai của tổ tiên vào tay Trung Quốc.  

 

KẾT LUẬN

Từ sau thế chiến thứ hai, khi đảng CS cướp được chính quyền ở Việt Nam, Việt Nam nằm giữa hai thế lực tư bản và CS, và bị các cường quốc áp đặt những quyết định theo quyền lợi của họ.   

Khi can thiệp vào Việt Nam nhằm phòng thủ và ngăn chận CS từ xa, Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không tấn công Bắc Việt để chận đứng nguồn tiếp liệu của khủng bố và du kích phát xuất từ Bắc Việt Nam.  Vì vậy, CS ở miền Nam Việt Nam được Bắc Việt Nam với sự tiếp tay của CSQT, nuôi dưỡng, tiếp liệu, đã hoạt động liên tục, không nghỉ ngơi, thắng thua gì cũng cứ tiếp tục chiến đấu theo lệnh của đảng Lao Động, hết keo nầy bày keo khác trên toàn quốc.  Hoa Kỳ chẳng những không thành công trong việc giúp VNCH chiến thắng CS ở miền Nam Việt Nam, mà càng ngày Hoa Kỳ càng sa lầy trong chiến tranh Việt Nam.  Hoa Kỳ liền thay đổi sách lược, bắt tay với Trung Quốc, rút quân khỏi Việt Nam, bỏ rơi VNCH, theo một đường lối khác trong khi tiếp tục chống khối CS trong chiến tranh lạnh. 

Sự chuyển hướng của Hoa Kỳ cho thấy rõ, trong chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản, chiến tranh Việt Nam không phải chỉ được quyết định trên chiến trường Việt Nam hay quyết định tại Sài Gòn và Hà Nội, mà chiến tranh Việt Nam còn là kết quả của những trao đổi giữa Washington DC, Moscow, Bắc Kinh, và cả Paris, London …  Cần chú ý rằng không riêng gì Việt Nam, mà trên thế giới, ở Trung Đông, ở Trung và Đông Âu, ở Đông Nam Á, ở Phi Châu, ở Nam Mỹ, từ giữa thế kỷ 19, các cường quốc đều lạm quyền đối với các nước nhược tiểu, xem các nước nhược tiểu như những món hàng tồn kho, chia chác với nhau trên lưng các nước nhược tiểu. 

Đặt chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới, trong chiến tranh lạnh toàn cầu, rõ ràng kết quả cuối cùng chỉ có lợi cho ngoại bang.  Hai bên thắng thua đều bị chi phối bởi các thế lực quốc tế.  Bên thắng trận chẳng có gì để hãnh diện trong vai trò con cờ của CSQT.  Bên thất trận được đánh giá là chế độ tốt hơn bên thắng trận (John McCain tuyên bố tại Sài Gòn năm 2000), vì nền cai trị dựa trên nguyên tắc tự do dân chủ, là lý tưởng bất biến của dân tộc, của nhân loại.  Do hoàn cảnh quốc tế, lý tưởng tự do dân chủ ở Việt Nam phải tạm thời lép vế trước bạo lực, nhưng chắn chắn tương lai đất nước sẽ tiến về phía lý tưởng tự do dân chủ, như hoa hướng dương luôn luôn quay về ánh mặt trời.

TRẦN GIA PHỤNG  

(Toronto, 19-6-2012)


HĐ: "Chiến tranh Quốc - Cộng" một danh xưng đúng nghĩa đã từng bị người ta đánh tráo khái niệm để gọi là "Chiến Tranh Chống Pháp" và "Chiến Tranh Chống Mỹ". Lịch sử chân thực luôn luôn giúp ta thấy được lẽ đúng sai phải quấy của tiên nhân. Trên con đường nối gót tiên nhân, nhận thức chân lý sẽ giúp ta tránh được tội ác đối với hậu thế. Cảm ơn sử gia Trần Gia Phụng về bài phân tích trên. Đặc biệt cảm ơn vì danh xưng cho cuộc chiến Việt Nam từ 1954 là "Cuộc Chiến Tranh Quốc Cộng", như tác giả Minh Võ (một người không có học vị nào) đã từng tranh luận với tác giả Lê Xuân Khoa (tiến sĩ sử Hoa Kỳ) để buộc ông này phải xử dụng đúng danh xưng này. (đọc "Tâm Sự Nước Non 2" của MV).


Saturday, June 16, 2012

Con bò

..trăm năm còn có gì đâu
chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì!..

(Cung Oán ngâm khúc)



Con bò
Thảo Trường


Trại còn mười hai tù binh, mười sáu công an, hơn bốn trăm con bò. Công an giữ tù. Tù giữ bò. Cứ như thế mà thống trị nhau. Nhưng luôn luôn cái gì ít thì có giá, ở đây tù ít hơn công an, bò nhiều hơn tất cả, cho nên công an gọi tù là các Bác hoặc các Bố, còn bò thì cứ bị giết thịt hoài!
Từ trước tới nay công an vẫn gọi tù là anh xưng tôi đồng hạng, dù người tù ấy bảy, tám chục tuổi còn công an mới mười chín, hai mươi! Kể ra vai vế thì phải là ông cháu, phúc đức dày phải là cụ cháu. Nhưng thời này phúc đức rất là mỏng! Anh tôi suốt thành quen miệng và quen tai, kẻ nói không ngượng miệng người nghe cũng không còn chói tai. Con cháu cũng không thấy mình là sách mé hỗn láo vô phép mất dạy. Cha ông cũng không thấy phiền muộn vì bị xúc phạm. Chẳng qua là cái chính sách đàn áp khống chế nó xiềng xích đầu óc người ta lại thành quen rồi. Bọn khủng bố còn tập cho tù nhân chịu đựng cái sức ép lún xuống một độ sâu hơn nữa, chúng lên lớp rằng chính sách cải tạo là một chính sách giáo dục, trại giam là trường học, tù nhân là học trò, còn chúng tự nhận là... thầy! Chúng nói hoài nói mãi suốt mấy chục năm, nói từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc, ai nói khác đi chúng bắt bẻ, buộc tội ngay. Miết rồi quen, vợ con họ hàng ở nhà có ai hỏi cũng quen miệng trả lời nhà tôi đi... học, bố cháu đi học, chú ấy, bác ấy đi học... thậm chí đến các hãng thông tấn, các tờ báo quốc tế có khi cũng dùng những từ ngữ giả mạo đó để mô tả một tội ác giam cầm đày đọa khủng bố con người kinh khủng nhất. Trong tù có anh cũng dễ dãi hoặc dại khờ tưởng mình đi học chứ không phải đi tù! Có người, có lúc, có nơi... cũng là do quá nhu nhược vì bị khống chế tinh thần mà như vậy thôi. Thế nhưng từ ngày chúng thả rất đông chỉ còn giữ lại hơn trăm cho cả nước thì nhiều cái phải thay đổi. Phân trại K2 biến thành chuồng bò. Trại này trước kia có thời đã nhốt tới một ngàn tư, trong nhiều năm chúng thả dần hoặc đưa đi trại khác, số tù binh giảm xuống chỉ còn mười hai người. Cái thay đổi đầu tiên là cách xưng hô, từ trưởng trại gọi bố trước rồi đến tất cả đám cán bộ bên dưới như được mặc nhiên hợp thức hoá, đều bố bố con con hoặc bác bác tôi tôi... Khởi đầu là:
- Trong khi chờ quyết định của Trung ương về trường hợp của các bác bị sót tên, ban giám thị nhờ các bác coi giùm... đàn bò!

Thế là mười hai bố sĩ quan cấp tá tù binh biến thành dân chăn bò hết. K trưởng còn nói:

- Các bác muốn ở chỗ nào thì ở, muốn ăn gì cứ lấy ăn, chắc cũng không lâu đâu, ít bữa nữa rồi các bác cũng về hết thôi.

Trong khu trại giam không canh gác ấy các bác tuỳ ý chọn chỗ nào mát, chỗ nào thích thì mắc võng, căng mùng, giải chiếu nằm... Xoài, đu đủ, chuối, rau, quả... các bác vừa ăn vừa phá. Các bác còn đùa với nhau:

- Ở tù lâu đến nỗi lên chức bác tù, bố tù rồi thì không còn gì để mà “bình” nữa.

- Nó gọi mình bằng thằng chán rồi bây giờ mới gọi bằng bố, đúng là lũ con bất hiếu.


- Nó gọi bằng bố nhưng lại bắt bố đi chăn bò, thêm một tội bất hiếu nữa.


- Trước mặt bố bố con con kiếm điếu thuốc thẳng hút chứ sau lưng nó vẫn chửi mình là thằng tù đấy.


- Ðương nhiên, nói dại nếu đang đêm có lệnh trên bảo chúng đem các bố đi bắn thì chúng nó cũng sốt sắng làm. Bố thông cảm!


- Thế cho nên nói năng thế nào thì nói, vấn đề không có gì thay đổi.


- Thôi cũng được, mình còn đang ở tù, nó có lễ phép giả bộ cũng được, mình biết thế và đừng có cảm động sảng mất lập trường chính nghĩa... Miễn sao mình thoải mái mà sống cho qua ngày. Vấn đề không giản dị đâu, không phải là sót tên đâu, có một ẩn ý gì đây, bọn cóc cắn ở dưới này chúng đâu có biết gì cho nên cũng phải nói đại là sót tên cho nó xuôi tai, chứ thực ra bọn đầu sỏ chúng nó có tính đến một âm mưu gì đó.


Một nhà phân tách tình hình, tay cầm roi bò vung lên cao khua khua như cowboy Texas, phán:

- Các bác thông cảm, thả hết các bác ra, chúng nó đâu còn gì để mặc cả, cũng phải giữ lại một cái gì đó để làm giá chứ! Thử hỏi bây giờ, trong cái nông nỗi này, vườn không nhà trống, bạn bè năm châu sau nhân nghĩa miệng nay đều lảng tránh, nhà cháu nhảy cỡn lên làm anh hùng mãi cũng đã thấy là vô bổ, bèn phải thực tế đi tìm những cái gì cụ thể một tí, mà đi tìm ở đâu bây giờ, tìm chỗ nào thì cũng phải đổi chác, ngay khi đàm phán cũng đã cần phải có cái gì làm quà tặng cơ mà, thế cho nên các bác bị giữ lại là để có cái mà làm giá, các bác sẽ là quà tặng, là vật trao đổi, là con tin không chừng... hà hà... tiền không đấy!

Một ý kiến rất tếu:

- Dằn chảo hả?

- Chứ sao! Tổng bí thư nói thả hết là một nhẽ, còn những tên bí thư khác, tên bộ nội vụ, anh em chúng nó phải tính đến đường cùng của chúng, thả hết để mà tay không à? Thế cho nên phải sót tên một mớ, các bác số đen, tử vi của các bác chưa hết sao triệt, có lẽ vẫn còn la hầu, kế đô... gì đó nằm ngăn cản nên các bác chưa về, âu cũng là cái số... Coi như mấy anh em mình còn bị kẹt lại là do tử vi!


- Chúng nó dồn hết các nơi về đây, mỗi nơi “sót tên” mấy chục, gom về bên K1 cả rồi, nghe đâu hơn trăm, gồm tướng tá...


- Như vậy hơn triệu anh hùng nay còn hơn trăm gom về đây... Cả chế độ với chính phủ và quân đội, chính nghĩa và hùng mạnh, sau mười bốn năm sụp đổ và tứ tán, nay còn lại vỏn vẹn trong cái chai này!


- Coi như... số của mình xấu nên bị kẹt lại, còn ở tù, trong khi tất cả các anh em khác đã thoát, nhưng hãy nghĩ là chúng ta bây giờ là phần đọng lại của cả một tập thể, chúng ta là những gì còn lại của cái đã mất, chúng ta là đại diện, là biểu tượng của chế độ chúng ta. Ngay giữa lòng cái xã hội khốn nạn này, giữa nơi giam cầm này, giữa chốn rừng thiêng nước độc này, giữa cảnh nhục nhã khốn khổ này, giờ đây, chúng ta hãy tỉnh táo mà nhìn nhận vai trò hiện hữu của chúng ta. Trong đau thương! Cũng giờ đây, những chiến hữu khác, kẻ thì đã chết, kẻ thì đã ra tù nhưng đang phải ẩn nhịn cơ cực nơi âm thầm nào đó, cũng có một số đã thoát nạn và đang yên bình xa xôi... Nhưng, vâng, nhưng chỉ có những kẻ số xui này, chỉ những kẻ bị kẹt này, chỉ những con tin này, chỉ những kẻ làm món hàng trao đổi này, chỉ những thứ bị “dằn chảo” này là đang còn ở đây. Vâng chỉ còn chúng ta đây thôi ở trong cái chai. Chúng ta là những người tù binh cuối cùng.


- Và có thể là những tù binh vô thừa nhận!


Cho đến bây giờ thì vấn đề đã rõ ràng. Ðến lúc phải giải quyết thôi không còn câu giờ thêm được nữa, không còn làm cao làm giá gì với ai được nữa, không còn giữ được nữa thì phải thả, không còn áp chế như trước được nữa thì phải nhân nghĩa “bà tú để”! Một bác già phát biểu:

- Thằng chó nào cũng đểu cả, ngoài miệng đứa nào cũng nhân nghĩa. Thằng bỏ tù mình cũng nói “đất này nhân nghĩa”, thằng đồng minh với mình cũng nói “nhân quyền”, nhưng chẳng thằng nào thật lòng với các bác cả đâu. Ðứa nào cũng có chính sách của chúng nó, mà chính sách thì tùy quyền lợi và nhu cầu mà chúng hoạch định ra, thế cho nên khi cần bỏ các bác thì chúng trói gô các bác lại bỏ đấy cho quân thù vào hốt, xong sẽ la ầm lên đòi hỏi nhân quyền; khi cần giết thì chúng giết các bác không chút nương tay nhưng khi không giữ được thì chúng thả ra và nói nhân nghĩa... Các bác cứ việc ở tù tỉnh bơ, ở tù đã đến nước này thì còn cần chó gì nữa! Thử hỏi bây giờ chúng làm gì được mình nào? Làm gì tôi? Làm chó gì tôi. Tận “cùng bằng số” rồi là hết. Lâu cứt trâu hóa bùn...

Những năm tháng sau cùng của đời tù binh chúng tôi trở thành dân chăn bò chuyên nghiệp. Họ “nhờ” thì các bác “giúp”! Lúc đầu tưởng chỉ “giúp” mấy ngày, sót tên dò lại mấy hồi, ai ngờ dò lại hơn ba năm nữa chưa thấy tên đâu, mấy ngày của cộng sản hóa ra mấy năm. Ðược cái suốt mười mấy năm nghe chúng xạo thành nghe quen, nó muốn nói gì thì nói, các “bác” cũng không chấp. Những ngày đầu các vị cao bồi già cũng bối rối trong cái “cương vị” lạ mới này. Hơn bốn trăm con bò thả ra rừng trong giờ hành chánh, các bác chia nhau đi bao quanh đàn bò, nếu con nào đi lạc ra ngoài vòng phải đuổi nó vào đàn. Ðến giờ nghỉ lùa chúng về chuồng. Những ngày đầu vào nghề thì lo lắm vì bò là loại động vật nổi tiếng là... ngu, chúng đi lang thang bất kể qui định trại giam, cho nên có ngày lạc mất gần trăm con, các bác già lo lắng đi các ngả rừng tìm bò lạc. Có bác còn tính nhẩm mỗi con trung bình ba chỉ vàng, mười con ba lạng, trăm con ba chục lạng... chia đều cho mười hai bác, mỗi bác ngót ba “cây”, gom nhau mà đền nhà nước. Ði tù phải đăng ký, ghi tên tuổi, đóng tiền ăn, mang theo tiền tiêu, thuốc men, quần áo chăn mùng mền... đủ dùng cho một tháng “học tập”. Ðến năm thứ mười bảy vẫn chưa mãn... khoá học, lại để mất bò thì phải đền. Tài sản xã hội chủ nghĩa là “thiêng liêng”, không ai được đụng tới, không được để mất mát, mọi người đều phải bảo vệ nó. Nghe chưa? Người ta nói ra rả từ năm 75 như thế. Cũng may là đến chiều tối lũ bò lạc lục tục từ các ngả trong rừng lần lượt về đủ cả. Có bác già khen lũ bò này khôn, biết tìm đường về chuồng. Cũng có bác già thì chửi chúng “ngu như bò”, thoát thân tự do trong rừng không ở lần về chuồng bị nhốt rồi ra còn bị giết thịt nữa. Người khen, kẻ chê, chẳng biết thế nào là đúng sai nữa.


Có bác già kinh nghiệm thì nói:

- Bò cũng sợ rừng và đêm tối, như...

- Như gì?


- Như người ta.


Người ta có sợ hãi hay không thì còn tranh cãi và tuỳ, nhưng người ta khôn bỏ mẹ, những ngày sau đó các bác không rỗi hơi đi tìm bò lạc nữa, thây kệ, chúng sẽ tự tìm về. Ðúng như vậy, mỗi buổi chiều lùa bò về thấy thiếu các bác đóng cửa chuồng, đi tắm rửa nghỉ ngơi, lát sau trời nhá nhem tối lũ bò lạc kéo về nằm lền khên trước cổng chuồng kêu rống inh ỏi. Bác tổ trưởng nói:

- Lúc nãy thiếu mười lăm con, ông nào rảnh chịu khó ra mở cổng chuồng cho chúng vào xem có đủ không giùm tôi chút.

Một bác gắt gỏng:

- Thây kệ nó, ai bảo về trễ ở ngoài ráng chịu, phạt không cho vào nữa.

Một bác già khác:

- Lúc vào chuồng chúng cũng chen nhau giành giật mà vào, về trễ không được vào thì kêu rống lên. Nhốt trong chuồng giống như ở tù sao chúng lại đòi vào nhỉ?

Một bác nằm đong đưa trên võng hút thuốc lá thở khói mù mịt:

- Ờ, kỳ nhỉ, sao lũ bò lại đòi vào chuồng nhỉ?

- Ông hỏi đểu bỏ mẹ đi ấy!


- Người ta chửi bò ngu, cũng đúng, nhưng có khi ngu si dốt nát không biết suy nghĩ gì cả hóa ra lại có... hạnh phúc.


- Vậy hạnh phúc là cái gì trong cõi người ta?


Hôm sau bên trại K1 đem sang đổi một con bò kéo xe. Con bò kéo xe cũ rất lớn và rất hung dữ, nó mới húc chết một người nên không ai dám đánh xe bò cả. Ðó là một con bò lớn nhất trại, nó lại rất đẹp, bộ lông màu huyết dụ nên tù đặt cho nó cái tên là Thắm. Và lập tức cả trại gọi nó bằng cái tên ấy. Ở trại tù có nhiều tiếng do tù đặt ra rồi trở thành tiếng chính thức dùng trong trại. Trưởng trại là một anh trung tá công an mới học lớp ba nhưng anh ta rất ma mãnh, anh ta nói với đám nhân viên dưới quyền:

- Tụi bay đừng lý luận cãi vã với mấy bố già, nói không lại họ đâu, kể cả lý luận về chính trị chủ nghĩa cộng sản, sẽ bị họ vặn hỏi là bí đấy. Tao chủ trương nhốt, mấy bố ấy lộn xộn là nhốt, thế là sợ.

Anh ta rất lưu manh, cả khu rừng lá bị anh ta cho tù vào cưa hết cây đem bán lấy tiền một phần bỏ túi, một phần xây cất lung tung lấy tiếng với cấp trên là biết làm kinh tế sinh lời nhiều của cải cho nhà nước. Anh ta lập những trại nhỏ vào sâu trong rừng để tiện đường khai thác gỗ qua mặt kiểm lâm. Trại có các phân trại như K1, K2, K3... bây giờ bày ra những trại nhỏ vài ba cái nhà, đem máy điện vào thắp sáng trưng, đào ao đắp đập ngăn nước thành hồ, đắp đường... nhưng chưa biết đặt tên là gì, nghe tù gọi đó là K Mini, là Hồ Thiên Ân... anh ta chịu liền, thế là thành tên luôn, cả trại đều gọi như thế. Nhưng một công an lại hỏi Mini là gì, Thiên Ân là gì hả bố già? Một bố già bèn lấy bài mười mấy năm trước ra đọc: ”Mini là chữ của đế quốc, Thiên Ân là chữ của phong kiến, bậy, không nên dùng.” Anh ta ngớ người ra một lát rồi lẩm bẩm “Bây giờ còn phong kiến với đế quốc gì nữa hả bố?” “À, nếu thế thì thôi.” Cũng như chữ “thăm nuôi”, lúc đầu họ không chịu, “bộ nhà nước không nuôi nổi các anh hay sao mà gia đình phải nuôi, gia đình lên thăm gặp và “động viên” tinh thần các anh thôi...” Nhưng rồi chết đói nhiều quá mang tiếng với thế giới bèn phải để gia đình đi nuôi hàng tháng, lần nào cũng phải “thăm” bằng gạo và mì, thịt, cá, tôm khô, lạp xưởng, bột ngọt... dùng cho đến kỳ “thăm” tới. Do đó “thăm nuôi” là thăm nuôi, tiếng gọi chính thức không né vào đâu được. Vì thế tù đặt tên con bò là Thắm thì nó phải được gọi là Thắm, tất cả, và cả chính con Thắm nữa, nó cũng phải nhận cái tên đó. Khi một bác già gọi “Thắm” thì nó phải biết là bác gọi mình.


Hồi tháng trước cô Thủy nữ tù đánh xe bò từ K1 sang lấy phân, cô thì nhỏ người mảnh mai xinh xắn, con Thắm to lớn dềnh dàng ngang bướng vừa đi vừa rống, đến trước cổng chuồng bò cô hỏi một bác già:

- Chú ơi chuồng bò ở đâu chú chỉ dùm cháu...

- Cô hỏi chuồng bò...


- Dạ, cháu đi lấy phân.


- Biết, thấy đánh xe bò là biết đi lấy phân, nhưng cô hỏi chuồng bò ở đâu hả, nó ở trong túi tôi này...


Cô Thủy dậm chân xuống đất bành bạch:

- Người ta phải xúc cho đủ một xe phân, sợ không kịp, mà chú còn nói rỡn...

- Tại cô đứng ngay trước cổng chuồng bò rồi hỏi nó ở đâu...


Cô Thủy ngoái đầu nhìn vào trong cái cổng lớn:

- Ðây là cổng trại mà...

- À như vậy là cô chưa rõ đó thôi, phân trại này bỏ rồi, bây giờ làm nơi nhốt bò, nhà cửa trong đó rỡ đi hết rồi, vào trong đó mà lấy phân nhiều lắm.


Cô Thủy bẽn lẽn quay xe đi về phía cổng chuồng. Chừng mươi phút sau có tiếng kêu, người ta chạy vào thấy cô Thủy lăn lộn trên nền đất đầy phân, con Thắm thì dậm chân gầm gừ. Cô bị con Thắm húc vào bụng, cái đầu sừng đâm thành một vết bầm tím to bằng quả chanh. Người ta khiêng cô đi bệnh xá nhưng ngày hôm sau bụng cô chương lớn lên rồi mê man luôn cho đến khi chết. Từ hôm đó ai thấy con Thắm cũng sợ tránh xa, nghe nói nó bị cột lại đánh đòn nhiều lắm, những người thương cô Thủy đánh nó. Và nó được trả về đàn, đến lần các bác già chăn bò sợ. Chẳng lẽ ở tù mười bốn năm không chết, nay người ta về hết còn mình sót tên ở lại chờ... cho bò đá thì vô lý quá! Mà cũng đáng ngại lắm, thường những hoạn nạn nó hay tới vào những lúc bất ngờ, có khi khó khăn gian khổ trải qua hết rồi tưởng thoát, thế mà... họa vô đơn chí... năm phút cuối cùng của cuộc chiến mà chết thì đau... Năm phút cuối cùng của cuộc chiến trước bị đồng minh và lãnh đạo lừa phỉnh trói tay bỏ lại cho địch bắt làm tù binh vô thừa nhận... đã là đau, chẳng lẽ đau thêm lần nữa. Con Thắm đến chỗ nào, các bác lảng đi nơi khác, chẳng tội gì... Hình như anh chàng cũng buồn, nó lững thững đi theo đàn, nó nổi bật giữa đàn bò cỏ vì nó cao to hơn hẳn, màu lông thật đep, tướng đi chững chạc. Có lúc con Thắm lơ đãng đứng nhìn về một nơi xa xôi nào đó, có lúc nó uể oải gặm mấy cọng cỏ, cũng có khi nó đi lẻ một mình phía sau cùng của đàn. Nó là nơi cho bác già tổ trưởng đổ xuống những cơn nóng giận, bác già đưa ra cho toàn thể các”thành viên”trong tổ chăn bò một nguyên tắc kỳ cục: với lũ bò là phải nện, mỗi người phải có một cây gậy cầm sẵn nơi tay, con nào chậm chạp bướng bỉnh là phang ngay cây lên lưng lên đầu... tay phang miệng la hét dường như bác có nỗi niềm ấm ức gì đó trong lòng. Gặp con Thắm đủng đỉnh còn ăn đòn nhiều hơn:

- Mày là quân giết người, là đồ sát nhân...

Các bác già khác đứng nhìn vị lãnh đạo mà lòng ái ngại, một nói:

- Ðiên cả rồi...

Một khác vung roi đánh lung tung vào đàn bò, miệng cũng la hét:

- Ðừng tưởng tao không biết đánh! Cũng đừng tưởng tao không biết chửi thề! Ðù má!
Lũ bò chạy cuống quýt! Các bác già khác đứng ngơ ngác nhìn! Ðêm đó có hai bác già uống rượu đế say khướt, nôn mửa tùm lum, hình như nửa đêm về sáng trong cơn mê có bác còn khóc thút thít như trẻ thơ. Ðêm không trăng sao, rừng Lá suối Lạnh, âm u và lạnh lẽo! Sáng sau các bác lùa bò tới một vùng cỏ trống và bằng phẳng cho chúng gặm cỏ. Hai bác già một ngồi một nằm dưới một tàn cây lớn trấn giữ không cho lũ bò lội qua suối. Cánh đồng mênh mông một màu trắng của loài bông cỏ. Một đàn bướm vàng nhiều vô số kể, từ đâu tới chập chờn trải rộng khắp cánh đồng. Mỗi con bướm chỉ nhỏ bằng móng tay, vàng, rực rỡ, đan lấy nhau thành một tấm thảm. Bác già ngồi nheo mắt nhìn ra xa:
- Một nền mây trắng, bên trên lại trải thêm một giải tơ vàng.

Bác già nằm:

- Thế còn đàn bò?

- Chúng đang bơi trên biển trắng vàng.


- Biển gì?


- Ðể lim dim mắt lại chút nữa xem đã, biển gì nào, làm gì có biển vừa trắng vừa vàng...


- Có chứ, biển mộng...


- Xạo...


- Trong một cơn mê sảng hồi bị sốt cấp tính có lúc tôi đã thấy mình chập chờn ngụp lặn trên một mặt biển như thế này...


- À, mộng mị.


- Nhưng là có thực.


- Ờ, nhiều cái tưởng là không nhưng lại có thực, biết đâu đấy.


Hai con bê cái sóng đôi nhau gặm cỏ, cả hai cùng màu vàng nhạt. Theo sau là con Thắm. Một chú bò đực đến gần bèn bị con Thắm đuổi đánh. Bác già nằm, nhỏm ngay dậy, cả hai bác đều dõi theo cảnh đánh ghen:

- Tới rồi.

- Hoá ra chúng nó cũng biết yêu.


- Hoá ra chúng nó cũng biết ghen.


- Ghê thật.


Còn xảy ra nhiều lần nữa. Cứ có con đực nào đến gần là con Thắm đánh đuổi. Hai con cái tơ thì vẫn bình thản vô tình, coi như mình không can dự gì tới cái mâu thuẫn ngàn đời ấy.


- Cậy to con lớn xác làm trùm thiên hạ.


- Nhà độc tài độc quyền...


- Tham.


- Ích kỷ.


Chợt con Thắm cào cào hai chân trước mấy cái khiến những bụi cỏ bật rễ, rồi nó nhảy hai chân trước lên lưng một con bê tơ, con tơ này phải đứng khựng lại, sức nặng quá lớn của con đực Thắm làm cho con bê muốn quị xuống, trong khi ấy con tơ kia vẫn thản nhiên gặm cỏ kế bên. Nhưng rồi sau mấy cái xông xáo, con Thắm xìu xuống, cái sinh dục của nó đỏ hỏn lòng thòng như một giải cờ gặp nước. Con tơ thoát nạn tiếp tục đi bên con bạn, lững thững, gặm cỏ... Con Thắm chán chường theo sau... Hai bác già ngồi ngó kẻ bất lực. Có những khi người ta muốn lật đổ một cái gì đó nhưng sức không đủ đành ngậm ngùi nhìn... “nước chảy hoa trôi”. Buổi sáng hôm đó, con Thắm còn cố gắng nhảy thêm mấy lần nữa, khi thì với con cái này, khi thì với con cái kia, nhưng không lần nào thành công cả. Có lần còn thê thảm đến nỗi hai chân trước mới chỉ gác lên lưng con tơ thì đã tuột xuống ngay. Hai bác già lắc đầu:

- Chấp nhận đau thương cho rồi.

- Lực bất tòng tâm.


- Ngày tàn của bạo chúa.


Ðến gần trưa các bác già lùa đàn bò về gần tới chuồng thì có hai công an ôm hai khẩu AK đi theo đội hình hàng ngang tiến tới in như trong bài tập tấn công. Có anh còn đi theo thế lom khom như đang xung trận thật sự. Anh ta lên đạn cái xoạch. Một bác già đứng lại hỏi:

- Cán bộ làm cái gì thế?

Thiếu uý công an tên là Chức nói:

- Bắn con Thắm?

- Sao bắn nó?


- Ban giám thị cho... làm thịt.


Bác già thở phào:

- Tưởng cán bộ đi tấn công quân đế quốc bành trướng gì chứ, làm như đi trận thiệt ấy, thôi khóa an toàn lại, để lùa cả đàn vào chuồng rồi muốn bắn con nào thì bắn.

Nhưng anh ta không nghe, anh ta lăm lăm khẩu súng tiến đến gần con Thắm. Ðàn bò nối đuôi nhau vào chuồng, một bác già đứng đếm. Thiếu uý công an Chức chặn con Thắm lại bên hàng rào tre, con Thắm nhìn chăm chăm vào người công an và khẩu súng rồi nó đủng đỉnh gặm mấy cọng cỏ bên đường. Một bác già nói với một bác già bạn:

- Mình tránh ra phía sau nó kẻo lỡ mang họa.

- Ừa, mình đứng ngoài cuộc chiến...


Tên Chức giương súng lên nhắm ngay đầu con Thắm, chỉ cách mục tiêu chừng bốn mét, anh ta lấy thế đứng hai chân dạng ra... đùng, đùng, đùng... một bác già la lên:

ố Ba phát là báo động có tù trốn.

Tên Chức “đùng” thêm một phát nữa, bác già lại la lớn:

- Bốn phát là báo động cháy. Coi chừng bên K1 nghe bắn lại tưởng bên này có tù trốn hay có hỏa hoạn họ kéo nhau sang bây giờ...

Tên Chức bắn thêm một phát nữa là năm, năm phát AK nhưng con Thắm vẫn đứng sững, máu me ròng ròng chảy xuống từ miệng, tai, cổ nó... và con Thắm chợt lầm lũi đi về hướng tên Chức, anh ta hoảng sợ bỏ chạy. Người công an kia nói:

- Ðồng chí lui ra để tôi xử nó cho.

Con Thắm chậm chạp tách bầy, nó đi về phía khe suối cạn, hai người công an vẫn khư khư ôm hai khẩu súng đi theo sau nó trong một tư thế hết sức thận trọng. Hai con bê cái vẫn sánh đôi bên nhau bình an đi vào chuồng. Bác già lúc nãy chửi đổng:

- Bố tiên sư quân bạc tình. Chớ hề ngoái đầu lại nhìn lấy một lần vĩnh biệt. Chúng làm như không hề biết, không hề nghe, không hề thấy...

Bác già kia đáp:

- Bác thông cảm, chúng nó là súc vật không có ý thức.

- Thế nếu là người thì sao?


Con Thắm bị lùa xuống một chỗ trũng, sau đó thêm một phát súng nổ nữa thì nó quị. Hai người công an đứng trên bờ nhìn xuống hồi lâu rồi một anh mới xách cái búa nhảy xuống. Anh ta nhắm ngay sọ con Thắm mà bổ, con vật chồm dậy đứng sững, người công an liệng búa nhảy vội lên bờ. Hai người lại đứng trên nhìn xuống con vật, lúc đó nó đã máu me cùng mình. Thêm một phát súng nữa con Thắm lại quị, người cầm búa nhảy xuống bổ nhát thứ nhì, con vật lại chồm lên đứng sững, lại vứt búa nhảy lên bờ. Cứ như thế cả thảy bốn lần bắn bốn lần bổ búa và cuối cùng thì con vật cũng chẳng vùng dậy được lần thứ năm. Một bác già làm tính nhẩm rồi tổng kết trận đánh như sau:

- Chín viên đạn AK cộng với bốn búa kết liễu một kiếp kéo xe.

Chiều hôm đó các bác già được nhà bếp cấp phát thịt bò làm bữa cơm tối nhưng không có bác nào dám ăn. Các bác kiêng, sợ xui, vì nó là con bò húc chết người. Bèn cho hai anh công an có công lớn trong vụ hạ sát con Thắm. Hai anh này, một anh nấu thịt, một anh đạp xe ra chợ Sông Giêng mua rượu đế. Tối đó hai kẻ thắng trận được một bữa nhậu liên hoan mừng công hể hả mãi tới khuya còn khướt. Sáng sau một bác già cầm roi ra cổng đi thả bò, gặp Chức, bác hỏi:

- Tối qua đạt yêu cầu?

Chức cười ngoác miệng tới mang tai:

- Quá đã, quá đã.

- “Cũng đủ lãng quên đời...” hả?


- Mà sao các bố không ăn thịt bò...?


- Ăn chứ, nhưng không phải lúc nào cũng ăn...


- Các bố lạ nhẩy!


Bác già định nói gì đó nhưng không hiểu sao lại thôi. Bác đi một quãng chợt đứng lại vạch ống quần lên đến đùi, bác gãi gãi cái đầu gối mấy cái, rồi mới đi tiếp về phía những con bò.


Chuyện này có lẽ chẳng ai để ý tới và có lẽ cũng chẳng có ai còn nhớ tới. Thế nhưng không hiểu sao hình ảnh con Thắm tội nghiệp, hình ảnh cô Thủy xinh đẹp, hình ảnh các bác tù binh già lầm lì khốc liệt, khu rừng Lá âm u, và tính chất súc vật của một nền văn minh cộng sản, nó cứ ám ảnh lẽo đẽo theo tôi hoài. Tại sao, tại sao nhỉ, người ta, đôi khi, lại không quên được những chuyện mà người khác không chú ý tới.