Chiến tranh ý thức hệ
Minh
Võ
Trong
mấy cuốn sách và bài viết gần đây về các nhân vật lịch sử Việt Nam như Hồ Chí
Minh hay Ngô Đình Diệm, chúng tôi thường yêu cầu đặt cuộc chiến Việt Nam vào
trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ. Chúng tôi cũng đã từng phê bình
một vài học giả hay sử gia như giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1) và giáo sư Lê Xuân
Khoa (2) là đã không đặt cuộc chiến Việt Nam vào trong bối cảnh chiến tranh
ý thức hệ toàn cầu của Cộng Sản. Bởi vì nếu không đặt cuộc chiến Việt Nam
vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu thì sẽ không hiểu được nguồn
gốc và tính chất phức tạp của cuộc chiến
Việt Nam và sẽ không thể nào đánh giá đúng mức về hai nhân vật lịch sử nói
trên. Một sử gia có tham vọng viết lịch sử của toàn bộ cuộc chiến Việt Nam, hay
chỉ có một mục đích đưa ra một nhận định về một biến cố hay nhân vật lịch sử
Việt Nam trong cận đại sẽ rất dễ bị nhầm lẫn, lệch lạc nếu không xét đến toàn
bộ cuộc chiến ý thức hệ Cộng Sản toàn cầu.
Nhưng
chúng tôi chưa có dịp định nghĩa và giải thích một cách rõ ràng đầy đủ thế nào là chiến tranh ý thức hệ (3). Với bài
này, chúng tôi sẽ cố gắng làm việc đó một cách tóm lược tối đa, trong đầu vẫn
nghĩ rằng bạn đọc không còn lạ gì những khái niệm về đấu tranh giai cấp, giá
trị lao động và giá trị thặng dư, về duy vật biện chứng, duy vật sử quan, cách
mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, và thế giới đại đồng v.v... mà chúng tôi đã
có dịp trình bày qua trong các tác phẩm trước. Cho nên tôi sẽ không trở lại
những vấn đề lý thuyết khô khan, cũ rích nói trên nữa. Xin độc giả hãy coi đây
là ý kiến riêng của người viết về khái niệm chiến tranh ý thức hệ. Tuyệt nhiên
đây không phải là một bản tóm lược về cuộc chiến tranh ấy. Vì đó phải là một bộ
sách nhiều tập, dù có tóm lược đến mấy chăng nữa..
Nhắc
lại cuộc chiến đẫm máu suốt trong 3 chục năm, nhiều người đã than, đây là một
thảm họa của dân tộc, "bị xâu xé bởi hai ý thức hệ ngoại lai".
Nói vậy tức gián tiếp cho rằng phía Cộng thì chiến đấu vì ý thức hệ Cộng Sản.
Còn phía Quốc Gia thì chiến đấu cho một ý thức hệ ngoại lai nào đó, mà có thể
hiểu là ý thức hệ tư bản. Những người nói như vậy thường là lớp trẻ, hay những
người tự cho mình đứng ngoài và trên hai phe Quốc Cộng trong cuộc chiến 30 năm,
và họ tự phụ rằng họ mới có chính nghĩa, mặc dù có lẽ nhiều người trong số họ
chẳng bao giờ tranh đấu cho một lý tưởng hay chính nghĩa nào.
Riêng
tôi không coi tư bản là một ý thức hệ. Càng không cho rằng phía người Việt Quốc Gia chúng ta chống Cộng vì ý
thức hệ tư bản. Theo từ điển nguyên tự thì ngay từ Capitalism chỉ xuất
hiện lần đầu vào năm 1856, nghĩa là 8 năm sau khi có Tuyên Ngôn Cộng Sản. Các
cha đẻ của kinh tế thị trường tự do, đặc tính của nền "kinh tế tư
bản", như Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823) chưa bao giờ
dùng từ Capitalism để nói về mô thức kinh tế mà họ trình bày. Vì chính
các ông cũng chỉ nói về một lề lối điều hành nền kinh tế tự do theo luật cung
cầu, luật tự nhiên. Họ chưa hề đưa ra một ý thức hệ tư bản nào cả, mắc dầu Adam
Smith, ngoài tư cách kinh tế gia, còn là một triết gia.
Nhưng
chủ trương kinh tế chỉ huy của Mác thì rõ ràng nằm trong ý thức hệ Mácxít bao
gồm nhiều lãnh vực tư tưởng triết học, xã hội học, khoa học tự nhiên v.v... tất
cả thành một hệ thống. Cũng chính vì ý thức hệ Mácxít nên mới nảy sinh từ capitalism.
Theo Duy Vật Lịch Sử của Mác thì lúc ấy "chủ nghĩa tư bản đang giẫy
chết." Từ đó nhiều người không theo CS cũng bắt chước dùng từ
"chủ nghĩa tư bản" một cách máy móc.
Chúng
tôi luôn cho rằng cuộc chiến Việt Nam là một bộ phận nhỏ của cuộc chiến
tranh ý thức hệ toàn cầu bắt nguồn từ ý thức hệ Mácxít..
Bài
này gồm 5 phần: định nghĩa, 3 giai đoạn, 4 đặc tính và một định đề, 2 đề xuất.
Phần I. Định nghĩa chiến tranh ý thức hệ: Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến do, vì, cho và bằng một ý thức hệ.
11.
Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến do (hay bắt nguồn từ) một ý
thức hệ. Đó là ý thức hệ Cộng Sản. (4) Nó là nguồn gốc chiến tranh ý thức hệ.
Tại
sao lại bảo ý thức hệ Mácxít là nguồn gốc của chiến tranh ý thức hệ? Trước hết,
vì nó chủ trương đấu tranh giai cấp, hô hào, cổ võ giai cấp vô sản đấu tranh
nhằm tiêu diệt giai cấp tư sản và các giai cấp khác, hòng đưa vô sản lên nắm
quyền chuyên chính, độc tài tuyệt đối. Ý niệm đấu tranh là nguyên nhân và khởi
điểm của chiến tranh. Thứ đến, vì nó tuyên chiến với toàn thể nhân loại bằng
tuyên ngôn cộng sản, trong đó đòi hủy bỏ quyền tư hữu là cội nguồn mọi quyền tự
do căn bản của Con Người. Trong khi Mác coi quyền tư hữu là nguồn gốc của tư
bản và vì nó mà nảy sinh sự tích lũy tư bản bằng cách bóc lột sức lao động của
giai cấp công nhân, thì trong thực tế và từ nguyên nhân chính, quyền tư hữu lại
là nguồn gốc mọi quyền con người, không phân biệt tư sản hay vô sản.
12. Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến vì
ý thức hệ Mácxít. Các người Cộng Sản, khối cộng toàn thế giới thường trực ở
trong tình trạng chiến tranh toàn diện để truyền bá ý thức hệ này bằng mọi
cách. Thế giới tự do không thể không chiến đấu bằng nhiều hình thức khác nhau
để tự vệ. Như vậy hệ tư tưởng Mácxít chính là lý do có chiến tranh ý thức hệ.
Để tự vệ và bảo vệ quyền tư hữu, nhân loại không có còn đường nào khác hơn là
phải chống lại ý thức hệ đó. Bắt đầu là một cuộc chiến tư tưởng (5). Rồi từ sau
thế chiến II là cuộc chiến toàn diện toàn cầu bằng đủ mọi hình thức. Lác đác ở
một vài nơi trên hành tinh còn có cả tiếng súng, tiếng bom. Như chúng tôi được
biết, thì có ít nhất 8 nhân vật uy tín thuộc nhiều lãnh vực khác nhau đã gọi đó
là thế chiến III.(6)
Vì
có ý thức hệ Cộng Sản nên thế giới tự do thấy có bổn phận tham chiến không phải
bằng một ý thức hệ nào khác. Mà vì một lý tưởng. Phân tích từ ngữ
gốc Latinh như các tiếng Ý tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và cả tiếng Anh tiếng
Pháp, thì chữ ý thức hệ (ideologie) bắt nguồn từ chữ idea (idée) là ý hay ý
niệm. Thì chữ lý tưởng (ideal) cũng bắt nguồn từ chữ idea (idée). Lý tưởng là
một ý tưởng cao cả, phục vụ một mục đích cao cả. Lý tưởng của thế giới tự do
trong mục đích tự vệ chống lại ý thức hệ Cộng Sản là gì? Đó là lý tưởng tự do
dân chủ, hòa bình công lý, hòa hợp hòa giải, thịnh vượng, phú cường....Tất cả
những gì tốt đẹp nhất cho Con Người, cho dân tộc, cho nhân loại.
13. Chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản à cuộc chiến cho
ý thức hệ Mácxít.
Mác
chủ trương phá bỏ quyền tư hữu, chủ trương đấu tranh giai cấp, chủ trương cách
mạng bạo lực... nhằm mục đích gì? Nhằm mục đích đưa giai cấp vô sản lên nắm
quyền chuyên chính tuyệt đối, biến xã hội loài người thành một thiên đường
(sic) ở trần gian, trong đó không còn giai cấp, không cần chính phủ, hay nhà
nước. Thế giới sẽ là thế giới đại đồng. Chính cái thiên đường ở trần gian đó,
trong đó mỗi người làm tùy sức mà được hưởng tùy theo nhu cầu (Nhị Các = các
tận sở năng, các thủ sở nhu), nghĩa là nói một cách nôm na, muốn gì được nấy.
Đấy là cùng đích, là cứu cánh của cuộc chiến ý thức hệ mà Mác chủ trương. Vì
cái cứu cánh "cao cả" đó các người Cộng Sản tự cho mình có quyền dùng
tất cả mọi phương tiện, bất kể phương tiện nào, dù chính đáng hay không, để
tiến hành cuôc chiến ý thức hệ. Đối với họ "cứu cánh biện minh cho phương
tiện."
14. Chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến bằng
ý thức hệ.
Vế
thứ 4 trong định nghĩa này (bằng ý thức hệ) nói lên phương tiện, vũ khí
mà khối cộng dùng để tiến hành cuộc chiến tranh chống nhân loại. Nói một cách
cụ thể, chính chủ nghĩa Cộng Sản, hay ý thức hệ Cộng Sản đã được dùng
làm phương tiện đấu tranh. Nghĩa là các cán bộ Cộng Sản luôn dùng những điều
"tốt đẹp, tiến bộ, khoa học" (sic) của thuyết Cộng Sản để chiêu dụ
chẳng những giai cấp vô sản, giới nghèo trong cộng đồng nhân loại, mà chiêu dụ
tất cả mọi người đi theo họ. Mà quả thật trong một thời gian khá dài không
thiếu những nhà trí thức, đại trí thức bị lầm hay bị lừa đi theo, ca tụng, cổ
võ cho thuyết Mácxít. Nhiều nhà duy vật còn cho rằng loài người đã từ lâu bị
xiềng xích của tôn giáo kìm hãm, không tiến lên được. Nay thuyết cộng sản chủ trương vô thần, coi tôn giáo là
thuốc phiện. Vậy thuyết đó đã giải phóng con người. Duy vật biện chứng của Mác
cho nhiều người được tự do tuyệt đối không còn bị ràng buộc bởi sợi giây
"luân lý đạo đức cổ hủ" nào. Thay vào đó chỉ có "đạo đức cách
mạng" hướng dẫn sinh hoạt xã hội. Thậm chí có người còn dám nghĩ, tất cả mọi sự đều là của chung,
thì vợ anh cũng là vợ tôi.
Vô
tôn giáo, vô gia đình đi liền với vô tổ quốc. Vì theo ý thức hệ Mácxít, trong
tương lai, khi đã toàn thắng trên toàn cầu, thế giời đại đồng sẽ không cần
chính phủ, nhà nước, không còn biên giới quốc gia nữa.
Dĩ
nhiên không phải ai cũng tán thành một thế giới đại đồng kiểu đó. Và không
thiếu triết gia, các nhà xã hội học lên tiếng phản bác thuyết duy vật vô thần.
Nhưng phải công nhận, trong nhiều thập niên, nó đã được nhiều người tán thành,
cổ võ, quảng bá. Điều được tán thành hoan nghênh nhất trong học thuyết của Mác
là tính xã hội của nó: Mác bênh dân nghèo!
Mác kêu gọi vô sản (giai cấp bị bóc lột) toàn thế giới hãy đoàn kết
chống tư bản (giai cấp bóc lột).
Nhưng,
với tư cách là phương tiện hay vũ khí, ý thức hệ Cộng Sản chỉ là một mặt của
chiến tranh ý thức hệ. Mặt khác mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ý thức hệ
nói chung chứ không phải một ý thức hệ cụ thể nào. Ý thức hệ được hiểu một cách
chung chung là một hệ thống các ý tưởng. Nhưng trong trường hợp này, vũ khí hay
phương tiện chiến tranh ý thức hệ còn có thể là một chuỗi các ý tưởng, dù có
thành hệ thống hay không. Tuyên truyền chính trị hay vận động quần chúng chính
là một thứ vũ khí chủ soái sử dụng các ý tưởng để đấu tranh hay tiến hành chiến
tranh. Tuyên truyền hiểu theo nghĩa rộng
nhất còn bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh cân não với mưu trí không giới
hạn của các chiến lược gia.
Để
tóm tắt phần I vào một câu, ta có thể nói: Ý thức hệ CS chẳng những là nguồn
gốc, nguyên nhân đồng thời là cứu cánh của chiến tranh ý thức hệ, mà còn là
phương tiện, là vũ khí dùng trong cuộc chiến.
Phần II: Ba Giai Đoạn chiến lược chính.
Để
giải thích thêm về định nghĩa trên, chúng tôi xin tạm chia cuộc chiến toàn cầu,
toàn diện và trường kỳ của ý thức hệ Cộng Sản ra làm 3 giai đoạn để minh họa
bằng một vài sự kiện lịch sử có tính điển hình và tương đối quan trọng.
21.
giai đoạn 1: Từ tuyên ngôn Cộng Sản (TNCS, đầu năm 1848) đến khi Lênin
thành lập Quốc Tế 3 hay Quốc Tế Cộng Sản (Komintern, 1919)
Điều
quan trọng nhất trong TNCS là đả phá quyền tư hữu. Mác và Ăng Ghen cho rằng
quyền tư hữu là nguồn gốc và căn nguyên của chế độ tư bản là chế độ bóc lột.
Điều
quan trọng thứ hai là nó gọi tôn giáo là thuốc phiện du ngủ tầng lớp bị bóc lột
không dám đứng lên tranh đấu cho quyền lợi của mình.
TNCS
kêu gọi tất cả những người lao động bị áp bức hãy vùng lên (đánh đổ giai cấp
bóc lột)
Không
suy nghĩ nhiếu, và chưa có kinh nghiệm thực tiễn về những điều trên, nên ban đầu giới nghèo, giai cấp vô sản hân hoan
hưởng ứng TNCS. Nhiều chính khách, học giả, nhất là một số nhà xã hội học cũng tán thưởng. Họ coi học thuyết
của Mác như một phát minh có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới.
Nhưng
không thiếu những nhà tư tưởng, và nhất là lãnh tụ tôn giáo sớm nhận ra cái sai
và coi học thuyết này là mối nguy cho xã hội.
Vậy
là một cuộc đối đầu, xung đột về mặt tư tưởng, mặt lý thuyết đã thành hình.
Chiến tranh ý thức hệ khai mào. Tuy nhiên lúc ấy chưa ai ý thức được đó là một
cuộc chiến.
Trong
số những người lên tiếng cảnh tỉnh nhân loại về hiểm họa CS ngay từ khi bản
TNCS còn phôi thai là giáo hoàng Piô IX.
(xin xem lại chú thích (5).
Sau
đó ít lâu là Eugene J. Bohm Bawerk đã viết nhiều sách phản bác những chủ đề
chính yếu trong học thuyết Mácxít. (vẫn chú thích 5).
Quốc
Tế I bắt nguồn từ biến cố nước Nga đàn áp tàn bạo cuộc nổi dậy của công nhân Ba
Lan, đầu năm 1863. Một số nhà xã hội thuộc nhiều xu hướng khác nhau từ Pháp, Ý,
Đức, Bỉ sang Anh (một nước phát triển
nhất về thương mại và công nghiệp lúc ấy), để cùng với những nhà xã hội học và
công nhân Anh lập ra Hội công Nhân Quốc Tế để bênh vực quyền lợi của
công nhân trên thế giới. Họ họp nhau ở đại sảnh Thánh Martin, Luân Đôn. Chủ tọa
là Edward Spencer Beesly. Tên của Mác ở cuối sổ. Nhưng dần dần Mác đã nổi bật
lên và lãnh đạo tổ chức. Chính ông đã đọc diễn văn khai mạc Quốc Tế 1 vào ngày
27-10-1864. Tại đại hội I tại Genève. (1866), QT1 đã đạt được thành tích là đưa
vào chương trình đòi cho công nhân quyền được làm việc 8 giờ mỗi ngày.
Công
Xã Ba Lê (18-3-1871) thất bại ê chề đã làm giảm giá trị của ý thức hệ CS, mặc
dù trong số những người chủ xướng và điều khiển nó cũng chỉ có một thiểu số là
đồ đệ của Mác. Hơn nữa ngay từ đầu QT1 đã không có một cơ sở lý luận và đường
lối thống nhất nên chẳng bao lâu sự chia rẽ trầm trọng giữa phe (vô chính phủ)
của Bakunin và phe của Mác đã đưa đến sự giải tán QT1: Nhóm Bakunin (người Nga) muốn thách đố quyền
lãnh đạo của Mác, khiến phe của Mác và Ăng Ghen phải rời trụ sợ sang Nữu Ước,
rồi giải tán ở Phladelphia vào năm 1876.
QT1 chỉ sống được 12 năm.
Sau khi Mác mất (1883) được 6 năm, các
đồ đệ ông thành lập tại Paris một liên minh quốc tế các đảng xã hội thường
đuợc gọi là Quốc Tế II. Trụ sợ đặt tại Brussels, thủ đô Bỉ. Đại hội Paris này
gồn đại biểu giai cấp công nhân của 20 quốc gia. QT2 được thành lập trên nguyên
tắc đã được vạch ra từ QT1. Nhưng đã thóat khỏi ảnh hưởng trực tiếp của Mác (đã
qua đời).
Xướng xuất là đảng Dân Chủ Xã Hội (DCXH) Bỉ được sự hưởng ứng của các đảng DCXH
Đức, Thụy Sĩ, rồi đảng Công Nhân Pháp.... Hầu như nước nào ở Âu Châu cũng có
một chi nhánh QT2. Như vậy từ QT1 đến QT2 đã có tiến bộ rõ rệt là thành viên
thường là các đảng chính trị, có chủ trương đường lối chung. Tại mỗi nước thành
viên đều có lập những công đoàn để ra tranh cử với các đảng cầm quyền. Qua các
công đoàn này giai cấp công nhân đã tích cực tham gia vào những hoạt động chính
trị được hướng dẫn. Nhưng dầu sao QT2 cũng chỉ nhắm những mục tiêu có tính cách
giới hạn trong phạm vi xã hội, bằng các phương pháp ôn hòa. Phải đến QT3 cuộc
đấu tranh mới quyết liệt hơn. Trong số các thành tích của QT 2 các người CS
thường nêu việc lấy ngày 1 tháng 5 làm ngày quốc tế Lao Động. Lênin trở thành
một thành viên trong ban lãnh đạo QT 2 vào năm 1905. Quốc Tế 2 giải tán năm 1916 vì những bất đồng của các đảng thành
viên đối với Thế chiến I.
Hai
Quốc Tế này là hai thời kỳ đấu tranh vắn trong cuộc chiến ý thức hệ, nằm trong
giai đoạn đầu, thực ra không đạt được thành tích gì đáng kể về mặt chính trị.
Nhưng về mặt xã hội nó cũng khiến các xí nghiệp và công ty lớn thay đổi thái độ
đối với công nhân và đưa ra được một vài cải tổ tiến bộ. Chính những thay đổi
và cải cách đó lại đã chứng minh tư bản không giẫy chết như Mác khẳng định.
Theo Mác, căn cứ vào luật tất yếu của lịch sử giai cấp đấu tranh thì thế nào
"chế độ tư bản" cũng bị hủy diệt. Hai biến cố quan trọng trong giai đoạn
này là cuộc "cách mạng" ở Pháp gọi là Công Xã Paris (1871) đã bị thất
bại và sự ra đời của tác phẩm trứ danh của Mác Tư Bản Luận (Das Capital, 1867)
Tóm
lại trong giai đoạn 1 ý thức hệ CS chưa thực hiện được điều gì quan trọng khiến
nền tự do của con Người bị đe dọa. Trái lại có nơi có lúc nó đã gián tiếp giúp
cải thiện được phần nào cuộc sống và bênh vực quyền lợi của giới lao động.
Dầu
sao qua bài diễn văn khai mạc QT1 Mác đã cổ võ và kêu gọi giai cấp công nhân
hãy tranh đấu để nắm được quyền lực chính trị. Nghĩa là cụ thể hóa lời kêu gọi
của TNCS. Kết thúc bài diễn văn vẫn là "Vô sản các nước hãy đoàn kết
lại"
22.
Giai đoạn 2: Từ Quốc Tế 3 hay Quốc Tế CS đến cuối Thế Chiến II.
Đây
là giai đoạn chủ nghĩa Cộng Sản lan tràn khắp thế giới qua một loạt những đảng
Cộng Sản được điều khiển và kiểm sóat chặt chẽ của cái gọi là Quốc Tế 3, hay Quốc
Tế Cộng Sản (Komintern). Khi Lênin với đảng Bolshevich (đa số) thành công trong
việc cướp chính quyền từ nhóm Menshevich (thiểu số) vào ngày 7-11-1917, thường
được họ gọi là Cách Mạng Tháng 10 (theo
lịch Nga), thì phong trào Cộng Sản bùng lên khắp thế giới. Các quốc gia nhược
tiểu, nhất là những nước bị trị nhìn vào đó để tìm ra những phương lược đấu
tranh giành chính quyền. Nhiều đảng CS mới được thành lập và số đảng viên tăng
rất nhanh.
Chúng
tôi vừa dùng cụm từ "cướp chính quyền" để nói về cái mà các tài liệu
CS gọi là Cách Mạng Tháng Mười. Vì thực ra cuộc cách mạng của nhân dân Nga nhằm
lật đổ vua Nicolas II là vị vua cuối cùng của triều đại Romanov đã xảy ra vào
tháng 2 năm 1917. Sau cuộc Cách Mạng này, nhóm Mensheviks (đối lập với nhóm
Bolshviks của Lênin) đã thành lập một chính phủ lâm thời do Alexander Kerensky
làm thủ tướng và ấn định cuộc bầu cử vào năm 1918. Nhưng Lênin thấy không có hy
vọng gì thắng trong cuộc bầu cử đó, nên đã làm đảo chính lật Kerensky. Tiếc
rằng cuộc đảo chính ấy đã thành công khiến Kerensky phải chạy ra ngoại quốc,
rồi mất tại Hoa Kỳ.
Từ
đó Lênin thiết lập một chính quyền Xô Viết độc tài theo đúng lý thuyết của Mác. Tội ác dã man nhất là vụ
tàn sát toàn bộ hoàng gia Nicolas II vào năm 1918, mở đầu những cuộc tàn sát đẫm
máu sau này suốt trong thời gian CS cầm quyền tại Nga.
Năm
1919 (tháng 3) Lênin tập họp một số đảng
Cộng sản và đảng Xã Hội Âu Châu tại Moscow để thành lập Quốc Tế III cũng gọi là
Quốc Tế Cộng Sản (Komintern). Tuy bề ngoài tổ chức này là tổ chức quốc tế với
mục đích cách mạng toàn cầu, nhưng thực chất là một cơ quan do các đảng viên
Bolshevicks của Nga chi phối điều khiển. Chủ tịch của QT III đầu tiên là
Zinoviev, một lãnh tụ Nga Cộng, bạn của Lênin. Nhưng trong thực tế là do Lênin
lãnh đạo. Các đảng CS các nước muốn vào tổ chức này phải chịu 21 điều kiện do
Lênin đưa ra.
Trong
thời gian đầu chế độ Xô Viết tại Nga đã thực hiện công cuộc hợp tác hóa nông,
công nghiệp triệt để. Những hợp tác xã nông nghiệp, nông trường tập thể kiểu Kolkhoze
đã khiến nền kinh tế bị phá sản. Cái gọi
là Chính Sách Kinh Tế Mới (New Economy Policy, viết tắt là NEP) được ban hành.
Hơn nữa cuộc nội chiến với phái Bạch Nga trong những năm đầu bắt buộc các nhà
lãnh đạo Nga Xô phải nới lỏng sự kiềm tỏa. Đây là một bước lùi theo sách lược
"hai bước lùi, một bước tiến" của Lênin
Khi
mới thành lập QT III, Lênin đã phái những đảng viên Nga Cộng cỡ Dimitri
Manuilsky hay Gregory N. Voytinsky sang
những nước quan trọng như Pháp hay Trung Hoa để lôi kéo, chuyển hóa các đảng xã
hội hoặc đặt những cái nhân cho một đảng Cộng Sản tương lai. Cứ thế, phong trào
Cộng sản do Nga xô lãnh đạo dần dần xâm lấn vào các nước trên thế giới để
mở rộng "đế quốc Liên Xô" sau
này.
Trong
thời gian từ khi QT III ra đời (1919) cho đến khi bị Stalin giải tán (1943), có
7 đại hội. Bốn đại hội đầu được tổ chức đều đặn mỗi năm một lần. Rồi 2 năm sau
mới có đại hội V. Rồi 4 năm sau mới có đại hội VI. Và cuối cùng phải 7 năm sau
mới có đại hội VII, cũng là đại hội cuối cùng. Lúc này trên toàn thế giới đã có
tới 76 đảng Cộng Sản, với 3,140,000. Sở dĩ càng ngày các đại hội càng thưa, là
vì phần lớn những chính sách quan trọng
đều do đảng Cộng Sản Nga do Stalin lãnh đạo quyết định. Vài trò của các đảng
khác trên thế giới càng ngày càng lu mờ. Đúng ra họ chỉ còn biết ngoan ngõan
tuân thủ những chỉ thị của Liên Xô. Những ai tỏ dấu chống đối như Manabendra
N.Roy thuộc đảng Ấn Cộng đều bị khai trừ, dù ông này đã lên đến địa vị ùy viên
chính trị của QT III.
Sau
khi Hitler lên cầm quyền ở Đức (1933?) tìm cách diệt Cộng Sản thì năm 1935
Stalin đã dẫn dắt đại hội 7 của QT III lấy nghị quyết liên minh với các thành
phần không phải vô sản, kể cả những thành phần dân tộc của mọi quốc gia để tập
trung mũi nhọn tấn công vào "Phát Xít Đức". Đó là lúc mặt trận bình
dân ra đời ở Pháp. Tại Việt Nam, với mặt trận thống nhất dân tộc, chống
Phát-xít, những khẩu hiệu sắt máu thời Xô Viết Nghệ Tĩnh tạm gác lại, thái độ
chống thực dân Pháp trở nên hòa hoãn..
Nhưng
rồi đến năm 1939 Liên Xô lại ký kết một hiệp ước bất tương xâm với Đức Quốc Xã.
Sách lược đấu tranh chống các cường quốc Tây Phương lại quay trở lại 180 độ. Cho đến khi vào giữa thế chiến II, khi
Liên Xô muốn hòa hõan với các nước Tây Phương để có được sự ủng hộ chống Phát
Xít Đức, thì Stalin bèn cho giải tán luôn Quốc Tế III. Đó lại là một bước lùi nữa theo sách lược
Lênin (đã chết được 9 năm rồi).
Không
hiểu chiến lược sách lược của Lênin, đã được vạch sẵn trong Những Nguyên Lý
của chủ nghĩa Lênin" thì cho rằng cộng Sản lúng túng, hay tiền hậu bất
nhất, chỉ vì quyền lợi của Liên Xô. Nhưng thực ra mục tiêu cuối cùng, mục tiêu
chiến lược số một là xích hóa toàn cầu của Cộng Sản không hề thay đổi. Họ chỉ
thay đổi những bước đi sách lược giai đoạn, tùy theo cái mà Stalin gọi là Cao
Trào hay Thoái Trào.
Có
thể so sánh sự giải tán QT III này với
việc Hồ Chí Minh giải tán đảng CS Đông Dương ngày 11-11-1945. Vì cũng như Liên
Xô vẫn tiếp tục lãnh đạo các đảng CS thế giới, để rồi 4 năm sau tái lập một tổ
chức Cộng Sản Quốc Tế mới không khác gì QT III tức là Phòng Thông Tin Cộng Sản
(Cominform), vào năm 1947, ông Hồ cũng tiếp tục điều khiển đảng CS dưới cái tên
Hội Nghiên Cứu Mác Xít, để rồi sau đó 6 năm ông lại cho tái lập thành đảng Lao
Động. Trong bình diện Việt Nam cũng như bình diện quốc tế, đó chỉ là một sách
lược giai đoạn, trong khi mục tiêu chiến lược toàn bộ vẫn không thay đổi: Bá
chủ thế giới.
Nhiều
người cho rằng bá chủ thế giới dưới quyền của đế quốc Liên Xô. Cũng có lý.
Nhưng Liên Xô vẫn phải lãnh đạo các đảng Cộng Sản địa phương với chiêu bài thế
giới đại đồng của giai cấp vô sản, theo đúng kinh điển Mác Xít, thì mới đạt kết
quả cao.
23.
Giai đoạn 3: Từ cuối Thế Chiến II đến khi Liên Xô tan rã.
Trong
giai đoạn 2 ta đã thấy Liên Xô tấn công thế giới tự do bằng các đảng Cộng Sản
địa phương, dùng các đảng này như những đầu cầu để tiến chiếm dần dần các lãnh
thổ do các chính phủ phi cộng sản cai trị. Nhưng phải cho đến cuối thế chiến II
âm mưu này mới lộ rõ.
Không
kể những xứ tại vùng Baltic như Latvia, Estonia, và Lithuania, bị Liên Xô xáp
nhập từ 1944, một số các nước Đông Âu khác, trong đó quan trọng nhất là Ba Lan
đã bị Liên Xô tráo trở không chịu thi hành đúng đắn những thỏa thuận giữa tam
cường tại hội nghị Yalta (đầu tháng 2-1945), là phải để cho các nước này được
tự do chọn lựa thế chế chính trị bằng những cuộc bầu cử tự do. Họ dùng các đảng
Cộng Sản tại chỗmhững nước đó để biến chúng thành những nước Cộng Sản, dưới sự
chi phối của Liên Xô. Hồng quân Liên Xô đánh đuổi quân Đức đến đâu coi như Liên
Xô có quyền chiếm đóng tới đó. Stalin ngay từ tháng 4 năm 1945 đã nói trắng ra:
"Cuộc chiến này không giống như trong quá khứ. Bất cứ ai chiếm đóng một
lãnh thổ nào thì cũng áp đặt trên đó hệ thống xã hội của mình. ai cũng áp đặt
hệ thống của mình theo lãnh thổ mà quân đội của mình có thể tiến tới. Không thể
khác được." (7)
Hội
nghị Yalta là một trận đánh bằng vũ khí phi vũ trang đầu tiên giữa Cộng Sản và thế giới tự do
trong giai đoạn 3, trong đó phe tự do đã bị đo ván, và học được bài học về quả
lừa của đối phương. Nhiều người quy lỗi cho Tổng Thống Mỹ Franklin D. Roosevelt,
đang bị bệnh, chẳng còn sống được bao lâu nữa nên đã mất sáng suốt, để Stalin
đánh lừa.
Sau
khi Âu châu đã hoàn toàn giải phóng, tam cường Anh Mỹ Nga lại họp tại Potsdam
để bàn chuyện chiếm đóng, sau thế chiến. Truman thay Roosevelt, Atlee thay
Churchill ở đoạn cuối. Vẫn Stalin với thái độ gian ngoan để chiếm ưu thế. Lại
một vố đau nữa cho thế giới tự do.
Bù
lại, kế hoặch Marshall, công trình của ngoại trưởng Đại Tướng George C.
Marshall, và thứ trưởng Dean G. Acheson (sau thành ngoại trưởng của chính quyền
Truman) đã làm cho khối cộng lúng túng. Kế hoạch này nhắm viện trợ tái kiến
thiết các nước châu Âu, kể cả các nước trong khối cộng. Nhưng Liên Xô đã thẳng
thừng từ chối. Có lẽ vì họ biết được thâm ý của người chủ trương là đồng thời
cũng nhắm lôi kéo các nước Cộng Sản tách xa khỏi Liên Xô. Ngoại trưởng Nga
Molotov gọi kế hoặch này là Đô La của bọn Đế Quốc. Thực ra số tiền mà kế hoặch
này chi ra từ 1947 đến 1951 đã lên đến gần 13 tỷ MK thờti ấy.
Để
đương đầu với vũ khí "phi vũ trang này" năm 1949 Liên Xô đã thành lập
khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance), tức Hội đồng tương trợ
kinh tế. Đó là chưa kể năm 1947 họ đã cho tái lập tổ chức quốc tế Cộng Sản dưới
cái tên nhẹ nhàng hơn là Phòng Thông Tin Cộng Sản (Cominform)
Đứng
trên bình diện chiến lược sách lược và kỹ thuật chiến tranh ý thức hệ mà nói,
thì các hội nghị Yalta, Potsdam, hay kế hoạch Marshall và Cominform, Comecon
chính là những hình thức đấu tranh, chẳng khác gì những vũ khí tối tân lúc ấy
mà hai bên dùng để "oanh kích" nhau.
Nhìn
một cách phiến diện thì chỉ thấy kế hoạch Marshall và Comecon là hai tổ chức
kinh tế. Nhưng nếu tìm hiểu đến nguồn gốc thì sẽ thấy những tác giả đều nhắm 2
mục tiêu vừa kinh tế vừa chính trị. Kế hoạch Marshall không phải chỉ nhắm mục
đích tái thiết Âu châu đã bị tàn phá vì chiến tranh, mà còn nhắm tranh thủ nhân
dân các nứớc Tây Âu, không để họ bị khối Cộng lung lạc, thu hút. Đó là về mặt
thế thủ. Về mặt thế công nó còn nhắm lôi kéo nhân dân các nước Đông Âu, kể cả
Liên Xô, hãy từ bỏ thể chế độc tài để có thể nhận viện trợ của các cường quốc
Phương Tây, tức cũng là của thế giới tự do.
Về
phía khối Cộng, thành lập hội đồng tương trợ kinh tế (Comecon) cũng là để
hóa giải sức tấn công của kế hoạch
Marshall. Đồng thời lập nên một khối vừa chính trị, vừa quân sự để trả đòn Tây
Phương.
Hai
năm sau Tổ chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra đời cũng nhắm ngăn chặn sự
bành trướng của Khối Cộng. Ngoại Trưởng Dean Acheson là người rất tích cực trong việc này, cũng như rất hăng hái ủng hộ
Đài Loan, và Pháp ở Đông Dương cũng vì mục đích ấy.
Khi
Trung Hoa Lục Địa bị xích hóa, thì các nước Tây Phương càng nhận rõ mối nguy
của Cộng Sản hơn nữa. Cộng Sản đã nhuộm đỏ gần một phần ba thế giới rồi! Những
ngoại trưởng Acheson và Fosster Dulles, và Tổng Thống Dwight Eisenhower là
những người nhìn thấy rõ mối nguy đó. Một loạt các tổ chức liên phòng như
CENTO, SEATO, ANZUS được thành lập. Mục đích: ngăn chặn làn sóng đỏ.
Không
những các cường quốc trong Thế giới Tự do đưa ra những biện pháp quân sự, chính
trị, kinh tế, ngoại giao nhắm ngăn chặn làn sóng đỏ. Siêu cường Mỹ lúc ấy còn
áp dụng cả những biện pháp tâm linh vừa có tính siêu hình, vừa phản ánh, ít ra
là về một phương diện nào đó, một kỹ thuật tuyên truyền bằng biểu tượng. Chúng
tôi muốn nói đến việc (năm 1953) Tổng Thống Dwight Eisenhower ký đạo luật cho
in và khắc 4 chữ IN GOD WE TRUST trên các đồng Mỹ Kim và các đồng tiền lẻ bằng
kim loại. Đó là một cách tuyên xưng Đức Tin, một quyết định tập thể của toàn
thể chính quyền, hành pháp cũng như lập pháp, đồng thời của toàn dân Mỹ xử dụng
đến vũ khí linh thiêng chống lại tà thuyết vô thần, vô tôn giáo, vào lúc nó
tràn lan hầu như sức loài người không ngăn chặn nổi..
Với
sức mạnh kinh tế vượt trội của Hoa Kỳ, đồng Mỹ Kim xuất hiện hầu khắp nơi. Các
nhà vô thần khi cầm nó trong tay, không thể không nhìn vào 4 chữ trên. Họ như
cảm thấy mình bị tấn công không có cách gì né tránh.
Theo
thiển kiến, đấy là một hình thức chiến tranh ý thức hệ cao siêu mà chỉ có những
lãnh tụ sùng đạo như Eisenhower (8) hay Foster Dulles vân vân ... mới nghĩ ra.
Dĩ
nhiên các cường quốc Tây Phương cũng áp dụng những biện pháp thông thường khác
của con người, trong đó có cả lực lượng vũ trang: Chiến tranh Triều Tiên. Chiến
tranh Việt Nam. Sự qua phân lãnh thổ hai quốc gia này.
Tại
Việt Nam, thời gian sau hiệp định Giơnevơ cho đến tháng 11 năm 1963 là thời
gian cuộc chiến mang màu sắc chiến tranh ý thức hệ rõ rệt nhất. Tuy vào giai đoạn
chót, (từ cuối 1962) đã bắt đầu có những trận đánh lớn, cấp tiểu đoàn, nhưng
nói chung cuộc chiến của CS nặng về du kích, phá hoại, ám sát, bắt cóc và tuyên
truyền. Còn về phía Việt Nam Cộng Hòa chiến tranh nặng về "tố cộng",
tuyên truyền, thuyết phục và chiêu hồi. Công tác quân sự chỉ ở trong phạm vi
nhỏ, "bình định".
Sau
khi ông Diệm bị giết, tình hình an ninh nguy kịch, khiến Hoa Kỳ phải đem đại
quân vào, (hay người ta giết ông Diệm, để có thể đem đại quân vào), thì về mặt
chiến tranh ý thức hệ, cuộc chiến Việt Nam đã mang một sắc thái khác. Hoạt động
quân sự từ cả hai phía leo thang. Những trận đánh lớn làm chết hàng triệu
người. Phía CS rất vui vì sự hiện diện của những đơn vị tác chiến Mỹ trên chiến
trường miền Nam. Toàn khối Cộng yểm trợ Bắc Việt bằng những chiến dịch tuyên
truyền rầm rộ rằng Hoa Kỳ xâm lược và hô hào toàn thế giới ủng hộ Bắc Việt, toàn
dân Việt Nam hãy đoàn kết diệt "đế quốc" Mỹ. Sau này chẳng những Tổng
Thống Nixon của đảng Cộng Hòa, mà cả tổng Thống Johnson, bộ trưởng Quốc Phòng
McNamara, thống tướng Maxwell Taylor của đảng Dân Chủ cũng nhìn nhận đó là lỗi
lầm nguy kịch của chính quyền Mỹ, lúc ấy do đảng Dân Chủ lãnh đạo.
Đặc
biệt là một số nhà báo Mỹ thiên tả không hiểu thực chất chiến tranh ý thức hệ
của CS đã coi phe Hồ Chí Minh có chính nghĩa, (cũng như trước đó họ coi Ngô
Đình Diệm chỉ là bù nhìn của Mỹ, quá thua kém HCM, cần phải lật đổ). Họ đã hô
hào nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh. Mặc nhiên họ đã trở thành những sư đoàn
(Mỗi ngòi bút là một sư đoàn), những đạo quân nội phản từ trong lòng tổ quốc
giao chiến chống tổ quốc, làm lợi cho kẻ thù. Tổng Thống Nixon trong cuốn The
Real War (9) đã nhắc lại lời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói với Sir
Robert Thompson rằng chỉ có báo chí Mỹ có thể làm cho thất trận. Ai cũng đã
biết đó là những nhà báo như Halberstam, Sheehan, Malcolm Browne..., đã từng
hết lời ca tụng Hồ Chí Minh và cũng hết
lời mạt sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và hô hào phản chiến.
Nếu
đã biết Cộng Sản là sự ác, là kẻ thù của nhân loại, thì việc Mỹ đem đại quân
vào để chống Cộng, là việc chính đáng. Nhưng cần phải có 3 điều kiện:
Thứ
nhất, phải bằng các phương tiện truyền thông làm cho nhân dân hai miền Nam Bắc
Việt Nam, cũng như nhân dân và các giới chức dân cử Hoa Kỳ thấy rõ lý do của
cuộc chiến. Và trong công tác này, báo giới phải giác ngộ trước và phải đi đầu.
Chuyện này đã không thể có vì phần lớn báo chí đã bị đầu độc, hoặc không biết
rõ về chiến tranh ý thức hệ CS. Nên không thể làm được. Chẳng những thế, họ đã
làm ngược lại hoàn toàn.
Thứ
hai, phải tiến hành các thủ tục công pháp quốc tế và giữ đúng thủ tục ngoại
giao. Nghĩa là phải có một hiệp ước song phương với chính quyền miền Nam. Điều
này đã không có.
Thứ
ba, tư lệnh chiến trường phải ban hành kỷ luật nghiêm minh cho quân sĩ giữ đúng
tác phong của một đoàn quân giải phóng, có chính nghĩa. Phải tôn trọng phong
tục tập quán của địa phương. Phải tôn trọng, bảo vệ tài sản, sinh mạng của nhận
dân địa phương. Phải phổ biến đến từng người lính của những dơn vị nhỏ nhất để
mọi người thấu triệt về lý do chính đáng của cuộc chiến: tự vệ, bảo vệ quyền
con người, bảo vệ sự tồn vong của nhân loại..Chứ không phải vì quyền lợi của
chính phủ Mỹ. Điều này tuy cũng có nhưng không đủ. Vì thế có một số (tuy không
nhiều) sĩ quan Mỹ hống hách, lấn quyền các sĩ quan Việt Nam. Một số đơn vị phạm
những lỗi lầm nghiêm trọng liên quan đến sinh mạng nhân dân Việt Nam. Trong số những
lỗi lầm đó, vụ Mỹ Lai được khối Cộng khai thác triệt để. Trong khi đó vì không
coi trọng tuyên truyền, nên phía VNCH và đồng minh đã bỏ qua, hay không khai
thác đúng mức những vụ tương tự của Cộng quân. Một khuyết điểm quan trọng nhất
trong vấn đề này, là thiếu hẳn một kế hoặch rộng lớn nhằm giải thích cho nhân
dân việt Nam cả hai miền Nam Bắc, cùng nhân Mỹ và nhân dân thế giới thấy rõ mục
tiêu chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa và phe Đồng Minh chỉ là tự vệ chống lại
sự xâm lăng của CS Quốc Tế. Và nhiệm vụ chiến lược này phải do báo chí đảm
trách. Tiếc rằng báo chí Mỹ đã chẳng những không làm, mà còn làm ngược lại.
Vì
thiếu ba điều kiện đó, nên cuộc chiến tự vệ đáng lý có chính nghĩa lại bị CS
dùng tuyên truyền tinh vi tố cáo là chiến tranh xâm lược. Tiếc rằng nhân dân
Việt Nam, nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới, phần lớn đã tin luận điệu của CS. Cho
đến ngày nay sự tin tưởng đó có suy giảm. Nhưng vẫn còn ở mức cao, cản trở mọi
nỗ lực chống Cộng, và cổ võ cho dân chủ tự do trong nước.
Vì
sớm nhận ra lỗi lầm to lớn về chiến lược đó, nên Tổng Thống Richard Nixon đã
bằng mọi giá cố rút chân ra khỏi bãi lầy Việt Nam. Khó khăn lắm. Vì Việt Cộng,
được sự ủng hộ của khối Cộng và dư luận
hoàn vũ, vừa ngoan cố, giằng co trong hòa đàm, vừa tung hết lực lượng vào chiến
trường. Nhưng nhờ có những sáng kiến đáng ngạc nhiên, Nixon đã thành công.
Tuy
nhiên phải công nhận, và chính Nixon cũng phải nhận, Mỹ đã thất trận ở Việt
Nam. Nói cách khác Mỹ đã thua tại một tiền đồn là Việt Nam.
Nhưng
sự kiện gần một triệu người bỏ trốn Cộng Sản, bất chấp mọi hiểm nguy đến tính
mạng, đã tạo nên một thứ vũ khí mới cho
một chiến trường mới.Thế giới có một cái nhìn rõ hơn về thực chất Cộng Sản. Vẫn
trong trang sách nói trên, Tổng Thống Nixon đã viết: "Ý nghĩa của Thế
Chiến III đã được viết lên một cách rõ ràng và hùng hồn trên gương mặt của các
thuyền nhân Việt Nam."
Chính vì sự kiện "bỏ phiếu bằng chân" này,
và vì sức chiến đấu anh dũng bền bỉ của biết bao chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa,
khiến Bắc Việt tuy thắng nhưng đã kiệt quệ về mọi mặt không còn đủ sức thừa
thắng tiến lên thôn tính các nước lân bang, theo dự đoán ván bài Đô Mi Nô của
Tổng Thống Eisenhower. Chứ không phải dự
đoán này không có cơ sở, như nhiều người nhận định một cách hời hợt.
Từ
đó, rút kinh nghiệm Việt Nam, Nixon đã nghiêng hẳn về những chiến lược phi vũ
trang nhắm vào chính tổng hành dinh của khối Cộng ở Liên Xô và nhắm vào nước
Cộng Sản đông dân nhất là Trung Quốc. Salt II với Liên Xô. Thông Cáo Chung
Thượng Hải với Trung Cộng, Nhượng bộ Trung Cộng phần nào (vâng chỉ một phần nào
thôi) về vấn đề Đài Loan. Mở đường cho Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc và tiến
dần đến việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh (1949).. Bề ngoài
xem ra là những bước lùi. Nhưng thực chất là những đòn tấn công tài tình về
chiến lược lâu dài. Nixon đã tách được Trung Cộng ra khỏi Liên Xô, làm suy yếu
khối Cộng, dọn đường cho George Bush (cha) và Reagan để tiếp tục những chiến
lược phi vũ trang tương tự liên tiếp tấn công khối cộng cho đến khi Liên Xô và
toàn khối Đông Âu sụp độ, tan rã.
Nixon đã dàn binh bố trận ra sao để mở đường
đưa tới chiến thắng? Tác phẩm trứ danh của ông nhan đề 1999, chiến thắng
không cần chiến tranh (10), cho thấy một số câu trả lời. Trong tác phẩm
này Nixon đã tiên tri rằng sẽ có chiến thắng vào năm 1999. Thực ra đại thắng đã
đến trước lời tiên đoán của ông 8 năm. Nhưng lời nói chiến thắng không cần
chiến tranh thì quá đúng. Trong cuốn sách này ông đã nêu lên ba công tác
chiến lược đại quy mô nằm gọn trong 3
động từ: Deter, Compete, Negotiate. Răn đe, thi đua, thương thuyết. Cứ việc
theo lộ đồ ấy mà đi, những Bush (cha), Reagan đã hoàn thành sứ mạng mà Nixon đã
trao phó, qua tác phẩm tiên tri này.
Nên
nhớ rằng trước khi mở toang thành trì kiên cố cho đối phương tiến vào triệt hạ,
lãnh tụ khối Cộng Mikael Gorbachev đã đi gặp Bush, Reagan, rồi Giáo Hoàng John
Paul II. Sau này chính ông đã nhìn nhận vai trò quyết định của Reagan và John
Paul II trong việc chấm dứt chiến tranh lạnh và tái lập hòa bình thế giới. Cái
gì đã thay đổi hoàn toàn con người của Gorbachev khiến ông ta được lãnh giải
Nobel Hòa Bình? Đó là chiến lược tài tình về sự xử dụng những võ khí "phi
vũ trang" (trường hợp này chỉ đơn sơ là những cuộc hội đàm hay thương
thuyết) trong chiến tranh ý thức hệ. Tuyệt nhiên không cần dùng đến võ khí nguyên
tử, hay hệ thống lá chắn thuộc vế cái gọi là chiến tranh giữa các vì sao (Star
war). Nhưng những thứ đó chính là chiến lược "răn đe ngăn chặn"
(deterrence) của Nixon. Xin hãy nhìn vào
sự sụp đổ của Ba Lan, mở đầu cho những sụp đổ giây chuyền, như kết cục của ván
bài domino, của các nước Cộng Sản Đông Âu để thấy rõ điều đó. Chỉ trừ ở
Roumania, là có những trận đánh tổn thất nặng về nhân mạng.
Xin
có một lời cuối về thực chất chiến tranh ý thức hệ. Tuy vũ khí chủ yếu là
"phi vũ trang". Nhưng nó không loại trừ các vũ khí thông thường cổ
điển. Bởi vì chiến tranh ý thức hệ CS là một thứ "toàn bộ chiến" theo
quan điểm của Karl Von Clausewitz rất
được Engels và Lênin tâm đắc và áp dụng. Cho nên không nên thắc mắc về những
trận đánh ở Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam, cũng như cuộc chiến đẫm máu tiêu
diệt tàn dư của chế độ Ceaucescu ở Roumania, hay các cuộc đàn áp đẫm máu các
cuộc nổi dậy lịch sử của nhân dân các nước Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung và Việt Nam
tại Praha, Poznan, Budapest và Qùynh Lưu v.v...
Theo
quan điểm chiến tranh cổ điển, thì những vụ trên chỉ là những điểm nóng tạm
thời trong cuộc chiến tranh lạnh, không đáng kể trên bình diện toàn cầu, không
cho phép gọi đó là thế chiến 3 được. Phần
đông các chiến lược gia theo quan điểm cổ điển cho rằng chỉ khi nào xảy
ra chiến tranh nguyên tử giữa hai khối Đông và Tây lúc ấy mới gọi là thé chiến
3. Nhưng theo định nghĩa chiến tranh ý thức hệ mà chúng tôi đã đưa ra ở phần
đầu, và theo quan điểm chiến tranh phi vũ trang của Nixon và một số chiến lược
gia am hiểu về Cộng Sản, thì đây chính là thế chiến 3. 8 Người gọi nó là thế
chiến 3 đều cho rằng lúc ấy CS thắng vì họ biết họ đang ở trong thế chiến 3,
còn phía thế giới tự do thì đang thua, vì không biêt mình đang lâm chiến hay
hưởng hòa bình (trong chiến tranh lạnh!) (11).
Phần III: Đặc tính của chiến tranh ý thức hệ Cộng Sản.
Theo
4 phần của định nghĩa và 3 giai đoạn của chiến tranh ý thực hệ nêu trên, thì
cuộc chiến ý thức hệ Cộng Sản có 3 đặc tính sau đây: Toàn cầu, toàn diện và
trường kỳ.
31.
Tính toàn cầu: Vì nó phát xuất
từ đấu tranh giai cấp. Mà giai cấp thì ở nước nào cũng có. Mác kêu gọi giai cấp
công nhân đứng lên đánh đổ giai cấp giai cấp tư sản. Vì cho rằng giai cấp tư
sản, là giai cấp chủ bóc lột thợ, là
giai cấp vô sản. Nhưng thực ra đối với Mác, và các người Cộng Sản nói chung,
mọi giai cấp đều là kẻ thù của vô sản. Trí thức, Phú nông, địa chủ, kỳ hào...
đều cần phải đào thải. Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.
Nói
công nhân là nói giai cấp chiếm đa số trong các nước công nghiệp cực thịnh như
Anh Mỹ, Pháp, Đức....trong thời đại Mác. Nhưng chủ nghĩa Mác lại được Lênin áp
dụng thành công (tạm thời) trước tiên tại nước Nga, là nước chưa phát triển về
công nghiệp. Đúng ra Nga lúc ấy chỉ là một nước nông nghiệp. Vì vậy những cuộc
đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất tại Nga, cũng như tại Trung Quốc, và phần
lớn các quốc gia Cộng Sản thời ấy là cuộc đấu tranh của bần nông chống địa chủ
dưới sự thúc đẩy của các đảng Cộng Sản. Đó là lý do tại Liên Xô, rồi Trung
Quốc, rồi Việt Nam đã lần lượt xảy ra những cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu.
Nhưng để khỏi bị phê phán là đi ngược đường lối đấu tranh của tổ sư Mác, Lênin
vẫn đưa ra nguyên tắc giai cấp công nhân là đội tiền phong. Nhưng phải liên
minh với giai cấp bần nông. Gọi tắt là liên minh công nông. (12)
Ngoài
tính giai cấp ra, thuyết Mác xít còn chủ trương phá bỏ quyền tư hữu vì cho rằng
vì nó mà nảy sinh chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc mọi tội lỗi đối với xã hội nói
chung, và đặc biệt, đối với giới vô sản nói riêng. Nhưng thực ra quyền tư hữu là quyền căn bản của con người.
Tạo Hóa tạo dựng con người, ngay từ sơ khai ai cũng tự cho mình có quyền có của
riêng, trong đó có quyền tự do là quyền tối thương. Vì thế chống quyền tư hữu
là chống nhân loại khắp hoàn cầu. Cứ nhìn vào sự thất bại thảm thương của các
hợp tác xã kiểu Kolkhoze ở Nga, hợp tác xã vĩ đại kiểu công xã nhân dân ở Trung
Quốc, hay các chính sách hợp tác hóa công nông nghiệp, cấp thấp rồi cấp cao ở
Việt Nam thì đủ thấy: đi ngược lại luật tự nhiên về quyền tư hữu là tai họa.
Tuy
có nhiiều người bào chữa cho Cộng Sản nói rằng Cộng Sản chỉ chủ trương công hữu
hóa các phương tiện và tư liệu xản xuất, chứ không chủ trương xóa bỏ mọi quyền
tư hữu. Nhưng đọc Tuyên Ngôn Cộng Sản, thì thấy không hề có sự phân biệt hay
giới hạn đó. Công hữu hóa các phương tiện sản xuất là bước đầu sẽ dẫn tới
"tất cả đều là của chung": Cộng sản.
Cứ
đọc, hay nghe, những lời kêu gọi vô sản thế giới hãy đoàn kết lại, hay hãy vùng
đứng lên mà từ tổ sư Mác cho đến các lãnh tụ Cộng Sản sau này đều dùng nó để
kết thúc Tuyên Ngôn CS, và các diễn văn quan trọng, cũng đủ thấy tính toàn cầu
của cuộc chiến.
Hơn
nữa chính những tổ chức Cộng Sản đều mang hai từ Quốc Tế. Nghĩa là toàn cầu.
Quốc Tế I, Quốc Tế II, Quốc Tế III, và Quốc Tế IV.
Cho
đến năm 1935, ở đại hội VII của Quốc Tế III trên toàn thế giới đã có tới 76
đảng Cộng Sản.(13) Tất cả đếu là những mũi nhọn xung kích nhắm vào thành trì
các quốc gia sở tại. Hàng loạt các quốc gia bị đe dọa tấn công. Và thực sự tại
nhiều quốc gia, những đảng Cộng Sản đã thành công trong việc đánh chiếm chính
quyền, áp đặt chế độ Cộng Sản (mà họ thường gọi bằng một cụm từ nhẹ nhàng văn
vẻ hơn: xã hội chủ nghĩa... (14)
Khi
Cộng Sản đã chiếm được một phần ba nhân loại rồi, các lý thuyết gia, các học
giả và chính khách Mỹ mới nhận ra tính toàn cầu của chiến tranh ý thức hệ Cộng
Sản. Nhiều người bắt đầu gọi đó là thế chiến III, hay World War III (WWIII).
Nhưng phần đông vẫn không ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, vẫn dè dặt
chỉ gọi đó là chiến tranh lạnh. Lạnh hay nóng, nó là thế chiến thì đáng lý phải
gọi đúng từ của nó là thế chiến III.
Từ
1998, trong cuốn Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng Chê, chúng tôi đã nêu lên những
người đầu tiên (ít nhất theo sự hiểu biết của tôi) dùng mấy chữ thế chiến 3.
Đó là giáo sư Robert Strausz-Hupé cùng với 3 đồng tác giả với ông, và người
điểm cuốn sách Protracted Conflict (Xung Đột Trường Kỳ) của Strausz-Hupé, là
Max Eastman. Tác phẩm xuất bản năm 1959. Bài điểm báo đăng trên The Reader's
Digest năm 1961. Sau này (đầu tháng 5-1975) nhà văn giải Nobel Alexander
Solzhenitsyn đã dùng lại.(15) Và trong
cuốn The Real War Tổng Thống Richard Nixon cũng trưng dẫn Brian Crozier (tác
giả cuốn Strategy of Survvival, tạm dịch: chiến lược để sống còn) cũng
nói rằng các chiến lược gia thế giới Tây Phương cứ ngở thảm họa thế chiến 3 sẽ
phải là thế chiến nguyên tử đã chẳng bao giờ xảy ra. Trong khi đó, thực tế thế
chiến 3 đang xảy ra trước mũi họ mà
không biết.
Một
cuộc chiến thực sự đã xảy ra trên bình diện quốc tế. Nó có tính toàn cầu. Vậy
không từ nào chính xác hơn để gọi nó: Thế chiến III. Vì không nhìn ra sự thực
phũ phàng ấy, nên trong một giai đoạn dài, thế giới tự do đã thua. Thua đậm
nhất là tại Việt Nam. Chỉ cho đến khi
những Nixon sực tỉnh nhận ra tại sao mình thất bại và cố bằng mọi giá
rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam, rồi kêu toáng lên Đừng Việt Nam Nào Nữa (No
More Vietnams) thì lúc đó tình thế mới đổi chiều.
32. Tính toàn diện. Cứ nhìn vào cách
chiến tranh ý thức hệ CS triển khai và tiến hành, thì thấy rõ tính toàn diện
của nó. Ngoài ra tính toàn diện cũng nằm ngay trong phần 4 của định nghĩa:
Chiến tranh bằng ý thức hệ, hay bằng ý niệm. Ý niệm là nguồn gốc của hành động.
Mọi sinh hoạt của con người và xã hội đều bắt nguồn từ ý niệm. Nó phản ánh và
bao gồm mọi loại sinh hoạt. Hơn nữa về mặt chiến lược, phải công nhận khái niệm
chiến tranh toàn bộ (Total War) do Karl Von Clausewitz xướng xuất đã được
Engels, học trò của ông và Lênin, người tán thưởng ông, trân trọng áp dụng. Như
vậy chiến tranh của Cộng Sản bao gồm mọi mặt sinh hoạt của xã hội. Chẳng cứ gì
quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa mà đặc biệt là tuyên
truyền và tình báo v.v....Tất cả mọi thứ đều có thể là vũ khí, mọi lãnh vực đều
co thế là mặt trận.
Tuy
nhiên tưởng cũng nên nhấn mạnh về một vài khía cạnh được các chiến lược gia Cộng Sản đặc biệt
quan tâm áp dụng. Như đã nói trong phần 4 của định nghĩa, chiến tranh ý thức hệ
là cuộc chiến bằng ý hệ, ý niệm. Do đó tuyên truyền có thể được coi là vũ khí
chủ lực. Hồ Chí Minh đã từng là ủy viên tuyên truyền của Quốc Tế 3. Ông đã nhận
chỉ thị của Quốc Tế 3 lập nhiều trường tuyên truyền tại Hoa Nam và vùng Đông
Nam Á. Trong chính phủ đầu tiên của ông ta có bộ tuyên truyền do Trần Huy Liệu
cầm đầu. Đơn vị "tác chiến" đầu tiên ông lập và giao cho Võ Nguyên
Giáp chỉ huy có cái tên rất đặc biệt: đội vũ trang tuyên truyền giải phóng
quân. Nó chỉ là một trung đội nhỏ bé, nhưng vô cùng quan trọng về mặt chiến
lược. Từ đó một trung đội trưởng tầm thường, họ Võ đã trở thành đại tướng tổng
thư lệnh lực lượng võ trang toàn quốc. Như vậy, về một khía cạnh nào đó. Cuộc
chiến chủ yếu là chiến tranh tuyên truyền. Ở đây hai chữ tuyên truyền biểu hiện
thực chất của toàn bộ cuộc chiến ý thức hệ.
Chúng
tôi nêu trường hợp Việt Nam cho dễ thấy, dễ nhớ. Nhưng trong phạm vi quốc tế
tuyên truyền cũng đóng vai trò then chốt về chiến lựoc. Tuyên truyền thay cho
vũ khí có lý do của nó. Trước hết ban đầu lực lượng vô sản thế giới, dưới sự
lãnh đạo của một số trí thức như Mác và Ăng Ghen, Lênin, còn nghèo, so với kẻ
địch. Tục ngữ có câu: Khỏe dùng sức, yếu
dùng chước. Lời nói không mất tiền mua, có thể biến thành vũ khí lợi hại. Dại
gì không khai thác tối đa. Hơn nữa dùng ý và lời thay cho vũ khí còn có cái lợi
là đối phương không biết được công dụng lợi hại của nó. Đối phương sẽ dễ bị
đánh bại mà không biết. Trong cuốn Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản, chúng tôi
đã để hẳn một chương để nói về tuyên truyền của CS. Và trong Hồ Chí Minh nhận
định tổng hợp chúng tôi đã để một phần ba chương 43 để nhắc lại, với những phân
tích mới.
Tình báo. Các người Cộng Sản có chủ trương mỗi đảng viên là
một cán bộ tuyên truyền và tình báo. Mỗi đảng viên đều có một bí danh, để che
dấu căn cước thực của mình. Ông Hồ có đến cả trăm vừa bí danh vừa bút danh vừa
tên giả. Sự trạng đó nói lên xu hướng tình báo mạnh mẽ trong chiến tranh ý thức
hệ CS. Bởi vì muốn làm một cán bộ tình báo (hay điệp viên) phải có bí danh,
phải có vỏ bọc, phải có hộp thư sống, hộp thư chết, mực chìm.... Phải tuyệt đối
dấu căn cước thật của mình.
Tình
báo chẳng những quan trọng trong chiến tranh quân sự. Nó còn quan trọng hơn
trong chiến tranh ý thức hệ. Nó có thể tấn công vào mọi lãnh vực. Cán bộ tình
báo CS thường kiêm nhiệm luôn công tác tuyên truyền và phản tuyên truyền. Trong
chiến tranh Việt Nam hãy lấy trường hợp Phạm Xuân Ẩn làm ví dụ điển hình. Không
biết bao nhiêu tin tình báo về bí mật quốc phòng bị tiết lộ. Không biết bao
nhiêu tai hại về tuyên truyền, qua những thông tin sai lạc được cung cấp cho
truyền thông Mỹ, qua những câu chuyện rỉ tai, tin đồn thất thiệt bất lợi cho
phe quốc gia.
Chiến tranh nhân dân: Theo lý thuyết Mác xít,
giai cấp công nhân giai cấp vô sản là đạo tiền phong. Nhưng trong thực tế các
nhà lãnh đạo Cộng Sản luôn dùng từ nhân dân để tăng cường lực lượng. Trong các
cuộc chiến tranh gọi là chống thực dân đế quốc hay các chính phủ hợp pháp địa
phương, cán bộ Cộng Sản luôn dùng chiêu bài yêu nước, dân tộc để tập họp càng
đông "nhân dân" càng tốt. Cuộc chiến được mệnh danh là chiến tranh
nhân dân. Quân Đội được gọi là quân đội nhân dân. Từ đó mọi người dân đều dương
nhiên tự động biến thành lính. Đã là lính thì phải chịu kỷ luật theo lính. Kỷ
luật nhà binh. Thêm vào đó tận dụng khẩu hiệu "Giặc đến nhà đàn bà phải
đánh", cộng quân gồm đủ mọi thành phần nam phụ lão ấu. Trên chiến trường
biết bao xác chết thiếu nhi 14, 15 tuổi phơi bày la liệt!
Đã
là chiến tranh nhân dân thì mọi tầng lớp nhân dân, văn nghệ sĩ, trí thức đều
phải vào khuôn vào phép. Báo chí phải phục vụ chính trị, phục vụ chiến tranh,
phục vụ đảng lãnh đạo. Vi phạm, sẽ bị kỷ
luật sắt nhà binh trừng trị. Những ai không
ra chiến trường, đều phải gia nhập các đoàn thể gọi là đoàn thể Cứu quốc. Nhi
đồng Cứu Quốc, Phụ Nữ Cứu Quốc, Bô lão cứu quốc, thanh niên cứu quốc, Công Giáo
cứu quốc, Phật giáo cứu quốc v.v....
Toàn
bộ lực lượng nhân dân đó được đoàn ngũ hóa để phục vụ chiến tranh trên mọi mặt
trận: kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội., tôn giáo...
Trong
cuốn Sách Lược Xâm Lăng Của Cộng Sản chúng tôi đã dành hai chương nêu một số
sách lược điển hình của CS dùng trong chiến tranh ý thức hệ, như các sách lược
mặt trận, hòa bình, liên hiệp, trung lập và những kỹ thuật tình báo, tuyên
truyền, xâm nhập, khủng bố, phá hoại v.v.... Tất cả đều nói lên tính da dạng và
toàn diện của chiến tranh ý thức hệ.
Khi
đã nhận ra tính toàn diện của thế chiến III, thì sẽ thấy tất cả các hội nghị
quốc tế, các hiệp ước đa phương, song phương giữa các quốc gia thuộc hai phe
đối nghịch đều là những trận đánh, hay những mặt trận. Chỉ nêu một số tượng
trưng như Yalta. Potsdam, Giơnevơ về Triều Tiên, Giơnevơ về Việt Nam, rồi Giơnevơ
về Ai Lao, hiệp ước Salt II, Thông Cáo Chung Thượng Hải, hay hội nghị Băng Đung
và sự thành hình khối các quốc gia không liên kết, hội nghị Vienna giữa hai K
...(16) Tất cả đều không chỉ thuần túy chính trị hay ngoại giao. Chắc chắn đó
là những trận đồ với mục đích tấn công hay phòng thủ, hay thoái lui của một
trong hai bên đối kháng. Thành công của Khối Cộng là thất bại của Thế giới Tự
Do và ngược lại. Có những trận năm ăn, năm thua. Thì cũng có những trận không
có bên nào toàn thắng, và những trận cả hai bên đều chiến bại. Phân tích từng
sự kiện đòi có một tác phẩm lớn. Xin hãy tạm coi như tạm đủ rõ về tính toàn
diện của chiến tranh ý thức hệ CS.
33.
Tính trường kỳ. Mác dậy rằng, theo định luật tất yếu của duy vật lịch sử
thì thế nào cũng sẽ đến lúc chế độ tư bản cáo chung, để nhường chỗ cho chế độ
Cộng Sản.. Nhưng để thúc đẩy tiến trình lịch sử cho sớm xảy ra, giai cấp vô sản
phải kiên trì đấu tranh. Bao lâu chế độ tư bản còn, bấy lâu còn phải tranh đấu.
Vì thế cuộc chiến tranh ý thức hệ CS mang tính trường kỳ.
Nikita
Khrutshchev đã từng lớn tiếng: "Đời vắn lắm. Tôi ước mong chóng đến
ngày lá cờ đỏ bay phấp phới khắp năm châu." Nhưng sau khi ông ta chết
được 27 năm thì lá cờ đỏ trên nóc điển Câm Linh, tổng hành dinh của khối Cộng
đã không còn phấp phới nữa. Và cờ búa liềm đỏ chói ở các thủ phủ của tất cả các
nước Cộng sản Đông Âu cũng bị hạ xuống. Nói chi đến phấp phới khắp năm châu.
Nhưng
cuộc chiến tranh ý thức hệ vẫn còn tiếp diễn ở những nước Cộng sản còn lại như
Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Cuba... Mới đây trong tháng 11 năm 2007 này Nông
Đức Mạnh, lãnh tụ Việt Cộng vẫn còn nhắc đến "chiến công lẫy lừng"
của cách mạng tháng mười Nga, coi như chuyện cờ đỏ vẫn còn hy vọng phấp phới
khắp năm châu. Ai bảo cuộc chiến đã chấm dứt? Ai dám phủ nhận tính trường kỳ
của thế chiến 3, it nhất trong đầu những người Cộng sản Việt?
Dĩ
nhiên, sau khi chiếm trọn miền Nam, và sau một thập kỷ áp dụng chính sách của
Cộng Sản, thấy cả nước ngắc ngoải (chữ của tướng Cộng Sản Trần Độ), cần
phải đổi mới hay là chết (cũng chữ của Trần Độ), đại hội VI (1986) của cộng đảng đã phải bỏ chính sách cũ, bất đắc dĩ cho
áp dụng kinh tế thị trường của tư bản. Nhưng theo chiến lược, sách lược đấu
tranh của CS, thì họ coi đây chỉ là một bước lùi, một bước ngoặt, đi theo đường
vòng. Chứ không phải sự đầu hàng như có người nghĩ. Một thập niên sau, họ bắt
tay với Mỹ, kẻ thù cũ. Nhưng chuyện này có lẽ, trong đầu họ, họ vẫn coi như một
bước lùi nữa. Hai bước lùi, để mở đường cho một bước tiến, theo lời của chính
Lênin. Chúng tôi cũng xin lưu ý là cái đặc tính trường kỳ của chiến tranh ý
thức hệ Cộng Sản nó đặc biệt đến nỗi đúng ra phải gọi đó giai giẳng lỳ lợm,
chết đến đít hãy còn cay. Bằng mọi cách phải cố bấu víu mọi thứ để tồn tại.
Không thể coi thường được. Những ai đã có kinh nghiệm với Cộng sản, đã từng
tranh luận với họ chắc cũng đồng ý như thế. Cũng vì thế xin đừng có ảo vọng
rằng Cộng Sản Đông Âu đã sụp đổ, thì Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ sụp đổ nay mai.
Nhiều người đã từng nói: Đối với Việt Cộng chỉ có thể đánh. Không có cách nào khác.
Nhưng lúc này ai dám nghĩ đến đánh? Vậy thì làm sao? Chúng tôi hy vọng các tổ
chức đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền sẽ có những sáng kiến thích đáng
về chiến lược và sách lược đấu tranh trong giai đoạn cam go này của cuộc chiến
ý thức hệ hãy còn giai giẳng với tính trường kỳ của nó.
Chúng
tôi nói cam go, vì hiện nay Việt Cộng đang đi trò leo giây giữa Trung Cộng và
Mỹ, và bề ngoài xem ra được sự ủng hộ và tiếp tay từ cả hai phía, mặc dù bên
trong họ cũng biết mình bị cả hai lợi dụng như một lá bài để chơi nhau.
Chúng
tôi cũng hy vọng rằng các tổ chức, đảng phái ở hải ngoại có đủ nhân sự và
phương tiện tài chính cũng như khả năng theo rõi sát tình hình trong nước và
thế giới để có thể đưa ra một đường lối đấu tranh toàn diện hữu hiệu hầu sớm đem
lại kết quả.
Ở
đây, hoàn cảnh và khả năng không cho phép chúng tôi bàn đến những vấn đề rộng
lớn ấy. Chỉ xin đưa ra một vài ý kiến cá nhân hầu đóng góp phần bé nhỏ nhất vào
việc chung.
IV. Định đề (Postulat, postulate)
"Ý thức hệ Cộng Sản (Mácxít) là không tưởng, sai trái,
xấu xa, tệ hại và là tai họa của loài người". Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tóm gọn trong từ
"sự ác" (evil).
Đến
nay đại đa số các nhà lãnh đạo quốc gia kể cả các cựu đảng viên, cựu lãnh tụ
Cộng Sản trên khắp thế giới đều tin như thế. Nếu còn có ai không tin thì xin
hãy coi lời khẳng định trện như một định đề, khỏi cần chứng minh. Cũng tương tự
như, trong hình học, định đề Euclid về sự hiện hữu của một đường thẳng duy nhất
từ hai điểm trên một mặt phẳng vậy. Xin hãy miễn thứ cho tôi cái tội nhảy từ
phạm trù chính trị sang phạm trù toán học. Đây chỉ là một hình ảnh dùng làm ví
dụ có tính suy loại mà thôi.
Thực
ra từ khi ra đời, ý thức hệ Mácxít đã bị
các nhà tư tưởng, và xã hội học phản bác rồi. Thực tế về cách thức nó thể hiện
trên nước Nga cũng cho thấy nó tệ hại và là nguồn mọi sự xấu xa. Nhiều nhà văn
nhà báo tên tuổi từng thích nó, ca ngợi nó nhưng sau khi nhìn vào thực tế đã
quay ra tố cáo và lên án nó. Trong số đó đán kể là những André Gide, Louis
Fisher, Stephen Spender, Arthur Koester, Richard Wright, Victor Kravchenko....
, Và đặc biệt là cả những cựu cán bộ cao cấp nhất của Cộng đảng Ý như Ignazio
Silone, của cộng đảng Nam Tư như Milovan Djilas vân vân cũng nặng lời kết án
nó. Đó là chưa kể đến những nhân vật giải Nobel Nga lẫy lừng như Andrei Dimitrievich Sakharov, Alexander
Solzenitsyn sau này.
Hơn
nữa thực tế phũ phàng là ý thức hệ đó đã hoàn toàn phá sản khi chế độ chính trị
theo khuôn mẫu và mô hình ý thức hệ Mácxít đã sụp đổ ngay từ cái nôi của nó là
Liên Xô. Thực tế đó cũng chứng minh hùng hồn rằng nó sai, xấu và tệ hại nên đã
bị đào thải.
Gần đây nghị quyết số 1481 ra ngày 27-1-2006 của
Cộng Đồng Âu Châu gồm 46 nước thuộc Tây Âu, Đông Âu và Trung Âu đã lên án chủ
nghĩa Cộng Sản, và các chế độ Cộng Sản trên khắp thế giới..
Ngày
12-6-2007 tại Hoa Thịnh Đốn một đài tưởng niệm trên 100 triệu nạn nhân Cộng Sản
trên khắp thế giới mới được khánh thành. Và trước đó nhiều nhân vật nổi tiếng
trên thế giới, nhiều học giả đã tổng kê con số từ 100 đến 146 triệu người bị giết
bởi Cộng Sản. Bằng 4 hay 5 lần số tử vong do Đức Quốc Xã gây ra trong thế chiến
II. Những sự kiện ấy đủ nói lên cái xấu xa tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản. Tưởng
không cần phải chứng minh thêm.
Còn
đối với một thiểu số người CS cuồng tín thì có viết cả một bộ sách ôn lại tất
cả mọi biến cố tư tưởng, xã hội, chính trị, chiến tranh, tranh chấp ngoại giao
vân vân giống như một bộ lịch sử thế chiến III, cũng khó lòng làm họ thức tỉnh.
Đã
là định đề thì có thể có một số người không chấp nhận và họ có thể tạo thành
một hệ thống lý luận khác để bào chữa cho ý thức hệ Mác xít. Nhưng vấn đề là
liệu có ai trong số họ đủ sức đưa ra một định đề đối nghịch trong lúc này hay
không.
Tóm
lại chúng tôi xin những ai chấp nhận định đề chúng tôi đưa ra hãy tiếp tục theo
rõi những lập luận kế tiếp về tác hại của ý thức hệ Cộng Sản và cách ngăn chặn,
đánh phá và hủy diệt cái đại họa của nhân loại này, còn rơi rớt lại ở Việt Nam.
Khi
đã chấp nhận định đề Cộng Sản là sự ác và tai họa của nhân loại rồi, thì đương
nhiên phải chấp nhận cuộc phản kháng của nhân loại chống ý thức hệ CS là chính
đáng và là nhiệm vụ cao quý. Tất cả những cá nhân hay đoàn thể, quốc gia tham
chiến chống Cộng đều là đồng minh, dù trong những tổ chức, quốc gia ấy có những
phần tử tham chiến vì lý do thực dân chăng nữa.
Đến
nay đã rõ lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam Hồ Chí Minh là đảng viên sáng lập đảng CS
Pháp. Sau đó ông đã là ủy viên trung ương Quốc Tế Cộng Sản (Quốc Tế Nông Dân).
Được tổ chức này giao nhiệm vụ truyền bá ý thức hệ CS tại Hoa Nam và Đông Nam
Á. Chính ông ta đại diện Quốc Tế CS thống nhất các phe phái CS ở Đông Dương để
thành lập Đông Dương CS đảng. Từ đó cho đến nay vẫn cái đảng đó tung hoành thực
thi đường lối chính sách của Quốc Tế 3, cướp chính quyền từ tay những người yêu
nước, mở cuộc chiến nhằm tiêu diệt các phần tử Quốc Gia.
Các
phần tử Quốc Gia đã kháng chiến chống Cộng từ đầu và đã được Pháp Quốc tiếp tay
chống Cộng Sản, với kinh viện, quân viện của Hoa Kỳ. Sau đó nhiều quốc gia khác
như Thái Lan, Phi Luật Tân, Hàn Quốc, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi v.v... cũng đã
gửi quân tới cùng chống sự xâm lăng của Cộng quân. Vì cộng quân được sự viện
trợ dồi dào hơn về mọi mặt của Quốc Tế Cộng Sản, nhất là của Liên Xô và Trung
Cộng.
Khi
đã đồng ý với những tiền đề trên thì tất cả những ai cùng với các phần tử dân
tộc Việt Nam chống Việt Minh Cộng Sản đều có chính nghĩa. Chính Cộng Sản mới
chống dân tộc Việt Nam, cũng như chống toàn thể nhân loại. Vì họ chiến đấu cho
một chủ nghĩa không tưởng, một thế giới đại đồng ảo. Nhất là họ hy sinh hàng
triệu người Việt cho những cái ảo tưởng đó.
Trong
cuộc chiến Việt Nam phe Quốc Gia thất bại. Cộng Sản chiếm một nửa nước năm
1954, rồi 1975 chiếm cả nước. Thế giới tự do đã thua vì có nhiều phần tử tả
phái, trong đó có nhiều ký giả Mỹ thân cộng không hiểu ý nghĩa của cuộc chiến ý
thức hệ toàn cầu, đã ca tụng Hồ Chí Minh là nhà ái quốc, là anh hùng dân tộc,
lên án chính phủ Mỹ ủng hộ các chính quyền miền Nam, gây nên làn sóng phản
chiến dữ dội. Hàng trăm ngàn, rồi cả triệu người biểu tình tại nhiều nơi trên
đất Mỹ. Tình hình ấy đã ảnh hưởng tới dư luận thế giới. Ngay cả Vatican (giáo hoàng
Paul VI) cũng phải lên tiếng bênh Việt Cộng (mà cứ tưởng vì hòa bình và công
lý!). Điều đó khiến chính phủ Mỹ (chống cộng diều hâu như Nixon) cũng đành bó
tay trước áp lực của dư luận, mặc dù có bom nguyên tử... Áp lực của dư luận
chính là thứ vũ khí quyết định sự thành bại của chiến tranh ý thức hệ.
Nhưng
nếu nhìn cuộc chiến ý thức hệ là một cuộc chiến tranh toàn cầu, theo định nghĩa
nêu trên, thì Việt Nam chỉ là một đồn nhỏ, tuy có thể gọi là tiền đồn của bên
này cũng như bên kia. Thua ở một đồn nhỏ, dù là tiền đồn, để rồi rút kinh
nghiệm đổi chiến lược, chiến thuật hòng mười mấy năm sau toàn thắng trên trận
địa toàn cầu. Thì cái thua đó đối với cả thế giới không đáng gì. Nó còn mở đầu
cho đại thắng. Chỉ có nhân dân Việt Nam đã tranh đấu can trường trong chiến
thuật, mà lại bị thất bại nhục nhã trong chiến lược. Đó là sự thiệt thòi quá to
lớn đối với dân tộc Việt Nam. Nhưng
chính kinh nghiệm thất bại của chiến tranh Việt Nam đã góp phần cho chiến thằng
của thế giới đối với toàn khối Cộng ở Đông Âu và Liên Xô. Chính những cuộc bỏ
phiếu bằng chân năm 1954, rồi 1975 đã góp phần không nhỏ nữa vào việc cảnh giác
dư luận hoàn cầu về hiểm họa CS. Vây
phía Quốc Gia không có gì phải hổ thẹn đối với sự thất trận năm 1975.
Riêng
dân tộc Mỹ, theo thiển ý, nên biết ơn và hãnh diện về vị tổng thống
tài ba của mình là Richard Nixon. Chính ông đã can đảm, sáng suốt và tài tình
rút chân ra được khỏi bãi lầy Việt Nam, rút kinh nghiệm về chiến tranh ý thức
hệ ở mặt trận này để tiến hành một chiến lược hoàn toàn sáng tạo là thương
thuyết với các đàn anh và bậc thầy của Việt Cộng là Liên Xô và Trung Cộng để
rối mở đường đưa tới chiến thắng chung cuộc vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ
90.
Chính
Nixon cũng đã gọi cuộc chiến ý thức hệ giữa CS và Thế Giới Tự Do là thế chiến
ba (WWIII). Và ông đã tiên đoán chiến thắng vào năm 1999. Và thực tế đã chứng
minh lời tiên đoán của ông là đúng, chỉ sai một điểm nhỏ là thay vì phải đến
1999 mới thắng, thì chiến thắng đã tới sớm hơn, từ 1991. Trong tác phẩm 1999, Victory Without War, Nixon
đã trình bày chi tiết chiến lược sáng tạo của ông qua 3 mặt, hoàn toàn phi vũ
trang, (nghĩa là chỉ bằng ý thức hệ): Răn đe ngăn chặn (deterence),
tranh đua (competition), và thương thuyết (negotiation). Nếu nhìn vào sự sụp đổ
của Ba Lan mở đầu cho sự sụp đổ của một lượt các nước Đông Âu thì ta phải thấy
Nixon quả là nhà tiên tri. Vì Mỹ không phải có chiến tranh (vũ trang) với khối
Cộng mà đã toàn thắng, trước thời gian tiên đoán của ông 8 năm.
V. Đề nghị:
Dựa vào định đề nói trên đề đưa ra những tiền
đề hợp lý chứng minh cuộc chiến mà Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chủ
trương và tiến hành trong hơn ba thập kỷ là một phần của cuộc chiến ý thức hệ toàn
cầu của Cộng Sản Thế Giới.
Lý
do: Vì ông Hồ cũng như phần lớn cán bộ cao cấp Việt Nam ban đầu đều do Liên Xô
đào tạo và chỉ huy để phục vụ Quốc Tế Cộng Sản. Chỉ cần mở các tài liệu chính
thống của CS, như Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập... và tác phẩm do chính cán
bộ cao cấp cộng sản viết cũng thấy vô số chứng từ không thể chối cãi.
Vì
các phương pháp mà CSVN dùng trong chiến tranh là những phương pháp bạo lực,
mang đầy đủ những tính chất của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu của QTCS.
Vì
sau khi chiến thắng năm 1954, rồi năm 1975, CSVN liền cho áp dụng đúng
những chính sách và chê độ theo gương
các nước đàn anh. Và đó là những chế độ đi ngược hẳn với truyền thống dân tộc.
Nó làm đảo lộn trật tự xã hội Việt Nam và băng hoại đạo lý.
Sau
đây là một vài đề xuất cụ thể nhắm vào các đảng viên CS và tiếp đó là những đề
xuất với cộng đồng người Việt Hải Ngoại.
51. Các
đảng viên Cộng sản và viên chức trong guồng máy cai trị trong nước hãy bớt chút
thì giờ mở máy vi tính, lên mạng, hay nghe đài từ cộng đồng người Việt hải ngoại
để mở rộng tầm nhìn và chia sẻ với đồng bào ở nước ngoài những ưu tư và thông
tin về hiện tình thế giới tự do dân chủ và về lịch sử Việt Nam cận đại và đương
đại, hầu có thể thông cảm nhau hơn.
Trong
số các đảng viên Cộng Sản, ngoài một số lớn còn trẻ vào đảng chỉ để tiến thân
hay lợi dụng, hay tự bảo vệ, có một số, nhất là những người lớn tuổi, đã vào
đảng hoặc vì một trong hai lý do sau đây, hoặc vì cả hai. Thứ nhất vì "lý
tưởng đầy tính xã hội, nhân bản của nó là để giải phóng giai cấp vô sản".
Thứ hai vì lòng yêu nước.
Tôi
tin rằng phần đông những người vào đảng vì "lý tưởng" của ý thức hệ
Mácxít là giải phóng giai cấp vô sản nay đã tỉnh mộng, sau khi thấy khối Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ và tan rã, nhất là khi thấy đảng CS Trung Quốc đã phải ôm
lấy kinh tế thị trường của chế độ tư bản. Rồi đảng CS Việt Nam cũng bắt chước.
Vì thế những người đó dĩ nhiên phải quay ra tự bào chữa là mình vào đảng, theo
đảng kháng chiến vì lòng yêu nước (17)
Số
người lớn tuổi vào đảng thực sự vì lòng yêu nước, và chỉ vì lòng yêu nước mà
thôi, theo thiển ý không nhiều. Là bởi vì trong thời gian trước, trước khi được
chọn làm đối tượng kết nạp vào đảng, hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả đều
đã được học tập về chính cương và sơ qua về lý thuyết Mácxít. Cho nên thế nào
họ cũng biết chủ trương của Mác là đấu tranh giai cấp để cuối cùng đưa giai cấp
vô sản (bị bóc lột) lên nắm quyền chuyên chính, sau khi đã tiêu diệt giai cấp
tư sản (bóc lột).
Chúng
tôi có một đề nghị với những đảng viên này, nhất là những vị ở trong Trung Ương
Đảng. Chúng tôi không muốn động đến bộ chính trị, mặc dù trong đó cũng có người
muốn lắng nghe đề nghị của những người "chống cộng", và có thể cũng
đang ôm mộng trở thành một thứ Gorbachev hay Yeltsin.
Xin
các vị ấy hãy bớt chút thì giờ ôn lại những gì các lãnh tụ CS Việt Nam, đặc
biệt là ông Hồ Chí Minh, đã tuyên bố giữa các đảng viên với nhau hay trong các
đại hội đảng, các ngày kỷ niệm của đảng. Rồi so sánh với những gì các nhà lãnh
đạo ấy nói với dân chúng, hay trong khuôn khổ nhà nước, với tư cách là chủ tịch
nước, chủ tịch hội đồng bộ trưởng hay bộ trưởng vân vân. Và xin hãy tự đặt câu
hỏi, tại sao lại có sự khác biệt đó.
Cũng
xin các vị ấy hãy suy nghĩ đôi chút về sự kiện ông Hồ giải tán đảng CS ngày
11-11-1945. Rồi tự hỏi, tại sao đảng CS đã giải tán từ ngày đó cho đến năm 1976
nó mới được lập lại, mà người ta lại mừng nó 30 tuổi vào năm 1960, và đến nay
người ta bảo nó đã 77 tuổi? Có phải ông Hồ nói dối không. Có phải ông Hồ đánh
lừa cả nước không? Và đánh lừa để làm gì?
Thêm
một đề nghị nữa. Các ủy viên Trung Ương
đảng hãy đọc kỹ lại hiến pháp 1946. Rồi tự hỏi làm cải cách ruộng đất theo lệnh
Liên Xô và Trung Quốc, giống y hệt các đàn anh, dưới sự cố vấn chỉ đạo của cán
bộ Trung Cộng để đi đến chỗ hàng trăm ngàn người bị giết oan, như vậy có phù
hợp với hiến pháp đó không? Và các tổ chức hợp tác hóa nông, công,
thương....nghiệp ngay sau khi chiếm được nửa nước có hợp với hiến pháp không?
Rồi đàn áp các văn nghệ sĩ trong các vụ Nhân Văn, Giai Phẩm có phải là vi phạm
trắng trợn quyền tự do ngôn luận ghi trong hiến pháp không. Nhiều người đã nói
các người cộng sản coi hiến pháp không bằng mớ giấy lộn. Các vị có bao giờ tự
hỏi, nói như thế có quá không? có chính xác không?
Còn
rất nhiều điều chúng tôi muốn đề nghị các đảng viên kỳ cựu và nhất là các ủy
viên Trung Ương đảng làm. Nhưng kể ra không đủ bút giấy. Vì vậy tôi chỉ xin có
một đề nghị chót:
Tôi
hy vọng các vị không khó nhọc lắm để có được cuốn hồi ký của lãnh tụ Liên Xô cũ
Ni Ki Ta Khờ Rút Sốp. Xin hãy mở trang 155 tập III (Bản Anh ngữ) và đọc to cho
các đồng chí gần đó nghe cho rõ:
"Các
đồng chí phải tôn kính người này (đồng chí Hồ Chí Minh), hãy qùy gối
trước ông ấy, để tỏ lòng biết ơn vì những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho
chính nghĩa Cộng Sản..."
Hãy
mở lại tập I trang 480-484 để hiểu tại sao lãnh tụ Khờ Rút Sốp bảo hãy qùy gối
trước Hồ Chí Minh. Vì đối với Khờ Rút Sốp, Hồ Chí Minh là tông đồ của Cộng Sản.
Hai chữ "tông đồ" mà lãnh tụ Liên xô dùng chứng tỏ, CS coi lòng tin
của họ vào ý thức hệ Mácxít, chẳng khác gì đức tin tôn giáo.
Nếu
các vị chưa hiểu tại sao Hồ Chí Minh được lãnh tụ Liên Sô ca ngợi là thánh, là
tông đồ của Cộng Sản thì hãy đọc tiếp nơi trang 487 tập I:
"Giờ
đây dân Việt đang đổ máu và hiến mạng sống mình vì lợi ích của phong trào Cộng
Sản thế giới."
Những
lời trên của lãnh tụ Liên Xô chứng tỏ ông Hồ đã lợi dụng lòng yêu nước của các
vị, và của toàn dân Việt Nam để xô đẩy toàn dân vào cuộc chiến, không phải vì
nền độc lập và thống nhất tổ quốc đâu. Mà chính vì phong trào CS thế giới đấy.
Không phải chỉ có Khờ Rút Sốp nói thế mà chính ông Hồ cũng đã từng xác nhận
"tôi giắt năm châu đến đại đồng", sau khi khen Đức Trần Hưng
Đạo: "Bác đưa một nước qua nô lệ". Mà chế độ đại đồng thì như trên đã
nói nó loại trừ khái niệm tổ quốc. Thế giới đại đồng là thế giới của giai cấp
vô sản khắp thế giới sống chung không cần chính phủ, không có biên giới quốc
gia. gọi tắt là vô tổ quốc. Vậy bảo rằng ông Hồ và đảng CS chiến đấu giành độc
lập dân tộc có phải là nói láo không. Nếu Đông Âu và Liên Xô không sụp đổ và chế
độ CS không biến tan thành mây khói, mà trái lại chủ nghĩa Cộng Sản đã thắng
trong cuộc chiến ý thức hệ, thì ngày nay làm gì còn tổ quốc Việt Nam, hay tổ
quốc nào khác, chỉ có một thế giới đại đồng giống như thời kỳ đồ đá mà thôi.
Sau
khi đã bình tâm nghiên cứu lịch sử các đảng CS Liên Sô, Trung Quốc, và Việt
Nam, rồi ngẫm nghĩ về 3 câu nói của lãnh tụ khối cộng vừa nêu, chắc thế nào
cũng có vị hối hận, và phẫn uất vì bị
ông Hồ đánh lừa.
Vậy
thì nếu bạn là tướng lãnh trong quân đội hay lực lượng công an CS, xin nhớ nhẹ
tay cho trong các vụ khủng bố, bắt bớ giam cầm dân oan, và những người nghèo
khổ không có tiền đi khiếu kiện. Chúng tôi không dám đề nghị các bạn đem quân
sĩ dưới quyền đến trụ sở bộ chính trị bắt giam hết nhóm người cuồng tín và giả nhân
giả nghĩa, như có người rất mong muốn điều đó sớm xảy ra. Không, chúng tôi chỉ
muốn các vị án binh bất động trong các cuộc tranh chấp giữa chính quyền CS và
dân nghèo, dân oan, dân bị áp bức, thì đã tốt lắm rồi.
Nếu
quý bạn cho phép tôi nói thêm vài lời nữa, thì tôi xin đề nghị: Hãy can đảm và
mạnh mẽ nói điều bạn suy nghĩ với các đồng chí và đồng nghiệp rằng ông Hồ đã
đánh lừa bạn, đánh lừa toàn dân.
Cái
ý đó cứ chuyền đi từ một đảng viên này sang đảng viên khác, thì chẳng bao lâu
trong số đảng viên sẽ có một Gorbachev, hay Yeltsin đấy. Tại sao ta chưa có
Yeltsin? Vì ta có huyền thoại anh hùng yêu nước Hồ Chí Minh. Nếu toàn dân biết
đây là anh hùng giả. Thì tức khắc sẽ có Gorbachev hay Yeltsin thôi.
52.
Đối với quý cộng đồng hải ngoại, ước mong của chúng tôi, cũng như của
nhiều người, là làm sao có được một tổ chức lớn mạnh có thể đủ tư cách đại diện
cho tập thể người Quốc Gia thì cuộc tranh đấu sẽ có kết quả hơn. Trong trường
hợp chưa thể có một cơ quan đại diện chung, thì đề nghị các tổ chức và đoàn thể
ai cứ việc của mình mà làm. Có khi nhiều tổ chức, mỗi tổ chức làm một cách,
mạnh ai theo đường lối riêng của mình cũng gây cho đối phương lúng túng, không
biết đâu mà đối phó. Nhưng trong trường hợp này, xin đừng đả kích nhau. Trái
lại nếu thấy tổ chức bạn lập được thành tích đáng khen thì đừng hà tiện lời
khuyến khích cổ võ. Hành động có thi đua, cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh để tiến,
giúp nhau cùng tiến. Chứ không phải cạnh tranh để tâng bốc mình, gìm người khác
xuống, Nếu có tổ chức nào, hay cá nhân những nhân vật tiêu biểu có những hành
động hay thái độ sai trái hay làm lợi cho CS, thì cũng nên thành thực phê bình
xây dựng. Nhưng nên tránh những lời lẽ hạ nhục, phỉ báng, lăng mạ.
Việc
lăng nhục phỉ báng, nên tránh cả đối với CS. Trong cuộc chiến ý thức hệ, trong
giai đoạn này, cảm hóa, thu phục thì tốt hơn là đả kích bằng lời lẽ khiếm nhã.
Nói vậy không có nghĩa là đôi khi những lời có thể coi như tục tằn, bất nhã của
một vài nhân vật tiêu biểu hay vốn nổi tiếng lại gây được sự chú ý và phản ứng mong
muốn, từ phía đối phương cũng như từ phía bạn. Đó là luật trừ.
Mục
tiêu số một của cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện này nhằm giải thể chế độ hiện tại
trong nước theo thiển ý, phải là đánh đổ thần tượng Hồ Chí Minh, phá hủy huyền
thoại "cha già dân tộc", huyền thoại "anh hùng yêu
nước".... vì đây là chỗ dựa cuối cùng của Viêt Cộng. Trong năm qua họ đã
bắt toàn đảng, toàn quân, toàn dân phải học tập tư tưởng và noi gương HCM cũng
vì mục đích bảo vệ thần tượng đó.
Muốn
bảo vệ thần tượng HCM, VC phải bằng mọi cách chứng minh cuộc kháng chiến từ
1946 đến 1975 là một cuộc chiến giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Chúng ta
phải bằng mọi cách đặt cuộc chiến đó vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ
CS toàn cầu, để chứng minh Việt Cộng do ông Hồ lãnh đạo chỉ chiến đấu cho ảo
tưởng thiên đường CS, hay cụ thể cho đế quốc Liên Xô.
Nói
đến thần tượng của CS, có người cũng muốn phía Quốc Gia có một thần tượng, và
muốn thần thánh hóa ông Ngô Đình Diệm. Theo thiển ý, điều đó không cần và không
nên bắt chước CS. Nhưng cũng không nên mắc mưu CS mà đả kích tất cả các lãnh tụ quốc gia. Công bình mà nói thì trong
số các nhà lãnh đạo quốc gia từ 1945 đến nay khó có ai hơn được Ngô Đình Diệm
về tài đức và công lao đối với dân tộc. Nhưng ông cũng có những khuyết điểm và
nhược điểm, mà rõ ràng nhất là đã dùng những kẻ dễ dàng phản ông, và ông quá
"mền yếu", hay "quân tử tầu" không cho những người ủng hộ
ông dùng binh lực dẹp đảo chính ngày 1-11-1963, khi họ đề xuất với ông. v.v....
Tuy
nhiên những người công kích ông Diệm đàn áp hay kỳ thị Phật Giáo, thì quả tình
không xem xét vấn đề một cách cặn kẽ. Vấn này vô cùng quan trọng đối với việc đoàn
kết phe quốc gia. Chúng tôi đã có dịp trình bày khá chi tiết trong hai bài dài
đăng trên Đàn Chim Việt đầu năm ngoái. Cho nên, tuy không nên thần thánh ông.
nhưng nếu để cho những người không am hiểu tình hình, chuyên căn cứ vào những
tố cáo vu vơ của một số người ác cảm để phủ nhận mọi công lao của ông, và liên
tục bôi nhọ thanh danh ông thì mặc nhiên khiến cho mọi người, nhất là dư luận
thế giới thấy: phe quốc gia chẳng có ai bằng ông Hồ! Điều này hẳn nhiên bất lợi
cho cuộc chiến ý thức hệ đang tiếp diễn.
Đánh đổ thần tượng HCM là công việc hàng đầu.
Nhưng nó không dễ dàng. Thứ nhất, vì ông ta đã được bộ máy tuyên truyền
của VC và cả của khối cộng thần thánh
hóa trong nhiều thâp niên. Đến nay đại đa số dân trong nước đã bị nhồi sọ, nhất
là giới trẻ, coi ông Hồ như vị thánh, chẳng khác gì đức thánh Trần. Cho nên muốn thay đổi cách
nhìn và tâm tư của lớp trẻ về ông Hồ cần phải có một cách tiếp cận đúng đắn, tế
nhị. Bằng không sẽ không có ai muốn đọc, muốn nghe chúng ta.
Cũng
vì muốn cho giới trẻ trong nước và nhất là một số đảng viên "lương
thiện" lắng nghe quan điểm khác lạ từ hải ngoại, mà có nhiều người chủ
trương cứ nói tốt về ông Hồ ở một số điểm, để rồi dần dần nêu lên những sai
trái, tàn bạo của ông ấy sau. Nhưng đây cũng là con dao hai lưỡi rất khó sử dụng an toàn. Cần tính toán
kỹ và phải giải thích sao cho bạn của ta không hiểu lầm và lên án. Vì phần đông
người quốc gia hải ngoại luôn gọi ông ấy là thằng, là tên tội đồ, là tên phản
quốc. Nghe ai nói về ông ta một cách kính nể, hay ôn tồn, họ đều cho là làm tay
sai cho CS. Theo thiển ý thì cách dung hòa là nên phân biệt khả năng và đức độ.
Nên công bình mà nhận rằng ông Hồ có chí lớn, thông minh và sắc sảo, lại được
đào luyện rất kỹ về kỹ năng tranh đấu. Cho nên ông ta đã thành công trong việc
cướp chính quyền. Nhưng ông quá tàn bạo và đạo đức giả một cách tài tình, khiến
nhiều người bị lầm, nếu không hịểu rõ bản chất Cộng Sản và quá trình hoạt động
cho Quốc Tế CS của ông ta. Đưa cuốn tự truyện của ông Hồ viết dưới bút hiệu
Trần Dân Tiên ra ánh sáng là một trong những cách hiệu nghiệm để lột mặt nạ đạo
đức giả của ông Hồ.
Kiểm
điểm lại những việc mà cộng đồng người Việt hải ngoại đã làm trong ba thập kỷ
qua thì phải công nhận sự cố gắng và khả năng của cộng đồng đã tạo nên được
những thành tích đáng khích lệ. Tỷ dụ như đã ngăn chặn được sự xâm nhập của CS
vào cộng đồng qua những cuộc biểu tình chống Trần Trường, chống tuần báo Viet
Weekly trưng hình ảnh và ca tụng Hồ Chí Minh ở quận Cam; chống tay Thomas triển
lãm về HCM ở Oakland; vụ tố cáo trường đại học MA Boston và William Joiner
Center ở tiểu bang Massachusett về việc những tổ chức này thuê cán bộ CS trong
nước (18) viết về Cộng Đồng người Việt Hải ngoại. Nhiều nơi tại Úc hay tại tiểu
bang Cali đã ngăn chặn những cuộc trình diễn
văn nghệ của một số tổ chức muốn dùng những diễn viên trong nước quảng
bá cho Việt Cộng. ..v.v.. Đặc biệt là những cuộc vận động để trên chục tiểu bang
và gần trăm thành phố chấp nhận cờ vàng mà bỏ cờ đỏ. Cũng phải kể đến rất nhiều
sách báo và các mạng lưới thông tin không ngừng kể ra những tội ác của Hồ Chí
Minh và đảng CS. Tất cả những cuộc viếng thăm Mỹ quốc của các tay CS gộc đều bị
cộng đồng người Việt hải ngoại biểu tình phản đối. Không biết bao nhiêu thư ngỏ
và kiến nghị của các tổ chức đấu tranh chống Cộng đã được gửi tới các chính phủ
và các tổ chức nhân quyền, tổ chức văn
bút, tổ chức Ân Xá Quốc Tế, hay ký giả không biên giới v.v... để nói lên những
vi phạm nhân quyền của Cs trong nước, và yêu cầu can thiệp cho những dân oan,
hay các nhà phản kháng, các chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền và tự do dân chủ
trong nước.
Chúng
tôi không phủ nhận những cố gắng và công lao ấy. Nhưng nếu xét về hiệu quả đối
với mục tiêu giải thể chế độ ở trong nước, thì phải thú thực những thành tích
ấy chưa đáng lấy làm tự mãn hay hãnh diện.
Theo
thiển kiến, chúng ta phải triệt để dùng phương tiện thông tin hiện đại để nhắm
vào các đối tượng trong nước. Từ các cán bộ đảng đến dân chúng, đến các cơ quan
truyền thông, các nhà lãnh đạo tôn giáo.... Và phải liên tục thăm dò dư luận
trong nước để biết hiểu quả của các công tác tuyên truyền vận động quần chúng
của chúng ta cũng như của CS. Mục đích của chúng ta là trước hết đưa vào trong
nước những thông tin chính xác về thế giới, về những tiến bộ khoa học, về những
tài liệu lịch sử chính xác, vô tư liên quan đến cuộc chiến Việt Nam trong dĩ
vãng.
Chúng
tôi xin thêm một ý kiến nữa. Các cộng đồng và tổ chức chính trị ở hải ngoại hãy
bổ túc những hoạt động chống cộng hiện tại, rất thành công, bằng những kế hoạch
đưa tin vào trong nước về tội ác của Cộng Sản, về bộ mặt thật của các lãnh tụ
Cộng Sản kể cả, và nhất là, ông Hồ Chí Minh. Xin các tác giả và nhân vật lãnh
đạo trong hai nền Cộng Hòa trước đây hãy đặt xuống hàng thứ yếu việc biên soạn
những tác phẩm thuộc loại hồi ký tự đề cao hay tự bào chữa về những lỗi lầm của
mình khiến chúng ta phải thua trận. Thiết tưởng cho đến nay, như vậy tạm đủ
rồi. Mà hãy tập trung chất xám vào việc chứng minh cho đồng bào trong nước và
dư luận thế giới thấy rõ rằng cuộc chiến mà CS chủ trương để thôn tính miền Nam
không phải là cuộc chiến vì lý tưởng dân tộc, mà là cuộc chiến nằm trong cuộc
chiến ý thức hệ toàn cầu, nhằm phục vụ chủ trương bá chủ hoàn cầu của cái gọi
là khối cộng, nhưng cụ thể và thực tế là của Liên Xô và/ hay Trung Cộng.
Chúng
tôi đã từng được đọc những tác phẩm có giá trị về phương diện lịch sử của một
số tướng lãnh và sĩ quan cao cấp VNCH cũ. Trong đó nhiều trận đánh oanh liệt
cho thấy Quân Đội mình đáng lý không thua. Nhưng phần đông các tác giả không
tìm ra đúng nguyên nhân tại sao mình thua. Xin hãy thành thực với mình, đừng đổ
lỗi cho Đồng Minh Mỹ phản bội hay bỏ rơi. Chính Mỹ cũng đã công nhận họ thua
thực. Mà mình đã thua, đối phương đã
thắng. Thì lịch sử từ đây do phe chiến thắng viết. Những pho sách chiến sử của
phe chiến thắng sẽ nói ngược lại hoàn toàn. Hơn nữa cả lịch sử thế giới cũng bị
ảnh hưởng mà ca tụng phe Cộng là tài giỏi là chiến đấu vì nền độc lập và thống
nhất VN. Như vậy nếu chế độ CS cứ tồn tại trong một thời gian dài, thì sẽ đến
một lúc nào đó con cháu chúng ta khi đọc lại tác phẩm của cha ông chúng sẽ nghĩ
cha ông chúng nói xạo. Hoặc chúng sẽ bảo, cha ông mình tài giỏi quá. Chiến
đấu oanh liệt quá! Nhưng đáng tiếc là lại đem cái tài của mình làm tay sai cho
ngoại bang. Nghĩa là thay vì kính phục, chúng sẽ chê trách. Chỉ vì chúng thấy
lịch sử trong nước, và thế giới đều ca ngợi ông Hồ là nhà ái quốc, là anh hùng
dân tộc.
Những
ai đã đọc hai cuốn tự điển bách khoa Anh và Mỹ về Hồ Chí Minh và hàng trăm tác
giả ngoại quốc ca tụng Hồ Chí Minh sẽ chia sẻ mối lo của chúng tôi.
Vì
vậy chúng tôi đề nghị quý vị đó hãy dùng tài viết lách của mình để viết về
những kinh nghiệm bản thân có liên hệ đến tội ác, và hành động phục vụ Liên Xô,
Trung Quốc hay quyết tâm thực hiện chế độ độc tài tàn ác của CS. Bởi vì nếu so
với những hồi ký nói về cái tôi hơi nhiều, thì những sách và tài liệu chống
cộng về mặt này hãy còn quá ít...
Gần
đây chúng tôi được đọc bài của nhà thơ Hữu Loan thuật lại chuyện cha mẹ vợ ông
bị CS đấu tố chôn sống, còn cho trâu kéo bừa lên thân thể. Những chuyện thật
như thế này sẽ đánh tan luận điệu của Việt Cộng rằng cuốn phim Chúng Tôi Muốn
Sống trình chiếu thời Đệ Nhất Cộng Hòa là bịa đặt. Chuyện tưởng như hoang
đường, mà lại là sự thực.
Nếu
mỗi nhà thơ, nhà văn, nhà báo của chúng ta cung cấp cho lịch sử chỉ một kinh
nghiệm sống như kinh nghiệm của nhà thơ Hữu Loan, thì chẳng bao lâu huyền thoại
về "cha già dân tộc" của ông Hồ sẽ tiêu tan hết.
Trước
khi chấm dứt phần V bài này, chúng tôi có một đề nghị chót. Xin các nhà đấu
tranh cho dân chủ tự do ở hải ngoại hãy dặt cho các cán bộ CS trong nước những
câu hỏi sau đây. Đồng thời đề nghị các cán bộ CS tự cho mình là lương thịện và
từ trước tới nay luôn một lòng vì dân vì nước, chứ không vì chủ nghĩa CS hãy
thành thực trả lời:
-
Ông Hồ Chí Minh có phải là người Cộng Sản không?
-
Tại sao ông ấy lại luôn chối mình không phải Cộng Sản, trước người Hoa, người
Mỹ, người Pháp và cả người Việt (với những người như Trương Phát Khuê,
Archimedes Patty, Lasan)?
-
Tại sao ông Hồ phải tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản ngày 11-11-1945?
-
Tại sao ông vẫn đánh lừa nhân dân để đảng đó sinh hoạt như chưa hề bị giải tán?
-
Tại sao năm 1960, đảng CSVN mừng 30 tuổi? Và ngày nay ai cũng biết đảng CSVN đã
77 tuổi?
-
Ông Hồ và đảng CS nói dối, lừa dối toàn dân và dư luận thế giới nhằm mục đích
gì? Có phải vì các người biết nhân dân Việt Nam không ưa Cộng Sản?
-
Hay vì các người muốn che giấu bộ mặt thật của mình.
-
Tại sao lại phải che giấu?
-
Ngày nay các người đã thấy chủ nghĩa CS là sai, là xấu rồi chứ, hay vẫn còn
nghĩ nó tốt, chỉ có người áp dụng nó làm bậy?
-
Các người có biết theo đúng thuyết Mácxít thì sau khi khối Cộng toàn thắng trên
thế giới, thế giới sẽ thành thế giới đại đồng, không còn biên giới quốc gia,
không còn cái gọi là nước Việt Nam nữa, nghĩa là sẽ là một thế giới vô tổ quốc?
-
Các người có biết rằng, nếu Liên Xô không tan rã cùng với sự sụp đổ hoàn toàn
của khối Cộng Sản Đông Âu, mà vẫn còn tồn tại, thì Việt Nam ngày nay sẽ chỉ là
một chư hầu của Liên Sô, thậm chí tên Việt Nam không còn trên bản đồ thế giới
nữa...?
-
Phong trào gọi là Xô Viết Nghệ Ttĩnh, với khẩu hiệu Trí Phú Địa Hào, đào tận
gốc, trốc tận rễ, có phải là con đẻ của chủ nghĩa CS không, có phản ánh
đúng chủ trương đấu tranh giai cấp không?
-
Nó có vì mục đích dành độc lập, thống nhất cho tổ quốc, và hạnh phúc của nhân
dân Việt Nam không?
-
Những chiến dịch Giảm Tô Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện có phải để dành độc
lập hay là để thực hiện thuyết giai
cấp đấu tranh của CS?
-
Ngày nay các người có còn nghĩ thế giới đại đồng của Cộng Sản là có khả năng
thực hiện, hay đã nhận ra rằng nó chỉ là không tưởng, là hão huyền?
-
Các người có dám can đảm nói lên những điều mình nghĩ không?
-
Một người CS như Hồ Chí Minh, khi vừa trở về nước, thấy núi cao đặt tên là núi
Các Mác, thấy suối đẹp gọi nó là suối Lênin. Rồi khi chết dối lại rằng mình đi
gặp các cụ Mác cụ Lê thì con người ấy có thể chối mình không phải Cộng Sản không?
-
Họ Hồ lấy bút hiệu Trần Dân Tiên để khen mình khiêm nhường, nhân ái, bảo toàn
dân gọi mình là "cha già dân tộc". Vậy ông ta có thể là người khiêm
nhường, ngay thẳng, chân thành chăng?
-
Những nhà báo nước ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh là người không hề có tật sùng bái
cá nhân như David Halberstam, khi biết rõ ông Hồ viết sách để tự tôn sùng mình
là cha già dân tộc, mà không lên tiếng nhận mình lầm, có phải là nhà báo có
liêm sỉ không?
Trước
khi kết luận, chúng tôi thấy cần nêu lên một ý kiến của một số người cho rằng,
thế chiến 3 đã kết thúc rồi, Khối Cộng đã thua rồi, nay không cần tìm hiểu về
cuộc chiến đó nữa. Để làm gì? Thưa nếu để đánh CS ở Nga, ở Đông Âu, thì đúng là
không cần. Nhưng mặc dù sau 1991 thế chiến
III coi như chấm dứt, nhưng chiến tranh ý thức hệ vẫn còn tại Việt Nam. Vì CS
VN vẫn áp dụng chiến pháp muôn thuở của CS là tuyên truyền xuyên tạc, xâm nhập,
tình báo, phá hoại các tổ chức của phe Quốc Gia, của những tổ chức bất đồng
chính kiến. Nhất là không bao giờ mở rộng dân chủ tự do, trái lal5i luôn luôn
bằng mọi phương pháp bạo lực duy trì và củng cố độc quyền cai trị, tức cái mà
Mác và Lênin gọi là "quyền chuyên chính vô sản"
Đáng buồn là lúc này xem ra thế giới tự do
không còn cùng với người QG VN chống Cộng nữa. Mà chỉ còn chúng ta chống CSVN
thôi. Nếu thế giới có tiếp tay với
chúng ta thì họ chỉ nhân danh nhân quyền, tư do dân chủ chứ không phải cùng sát
cánh chống chủ nghĩa CS là tai họa của nhân loại như khi còn Cộng Sản Liên Xô
và Đông Âu nữa.
Căn
cứ vào phản ứng dè dặt, nếu không muốn nói là lấy lệ, của chính quyền Mỹ trước
những đàn áp của VC trong năm qua ta thấy mong chờ ỏ ngoại bang, dù là Hoa Kỳ
đẻ áp lực đủ mạnh hòng làm thay đổi được thể chế chính trị ở VN trong lúc này
là ảo tưởng.
Do đó cần phải nhắm vào các thành phần dân chúng và cả một
số nhân vật cầm quyền mới mong đi tới một kết quả nhất định về lâu về dài. Và
để làm được điều đó phải có một kế hoạch thay đổi tư duy và nhận thức của giới
trí thức trong nước về vai trò của ông Hồ Chí Minh và mục tiêu đích thực của
ông ta trong cuộc chiến đẫm máu ba chục năm. Vai trò của ông Hồ với tư cách là
người lãnh đạo cuộc chiến tranh gọi là giải phóng hay dành độc lập đã khiến cho
Việt Nam không giống bất cứ nước nào ở Đông Âu. Do đó lý luận rằng Đông Âu đã
sụp đổ thì CS Việt Nam cũng chẳng bao lâu sẽ tan biến không có tính thuyết
phục. Lý do: Liên Xô và Đông Âu không có cuộc chiến chống thực dân đô hộ gần
100 năm như Việt Nam. họ cũng không có một lãnh tụ CS có công giành độc lập,
không có thần tượng anh hùng cứu quôc, không có "cha già dân tộc". Vì
thế mà phải đặt cuộc chiến VN vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ, để thấy
được thực chất của chiến tranh VN và vai trò đích thực của: Hồ Chí Minh và đồng
đảng. Đặt cuộc chiến VN vào trong bối cảnh chiến tranh ý thức hệ toàn cầu thì
sẽ thấy rõ: Hồ Chí Minh và đảng CS VN đứng chung với QTCS chống nhân loại,
trong đó có dân tộc VN, chứ không đứng chung với khối dân tộc chống xâm lăng.
Chính HCM và đảng CS VN đã cùng với QTCS xâm lăng miền Nam Việt Nam và phá hủy
mọi truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Kết luận
Tóm
lại, chiến tranh ý thức hệ do ý thức hệ Cộng Sản mà có. Nó do chính người Cộng
Sản chủ trương chống nhân loại. Cuộc chiến Việt Nam nằm trong cuộc chiến ý thức
hệ đó. Vì Hồ Chí Minh và một số đông đảng viên CS Việt Nam được đào tạo tại
trường Staline của Quốc Tế 3, tức của Liên Xô, đã theo chỉ thị và kế hoạch của
Liên Xô đưa chủ ngh ĩa CS vào Việt Nam, lập nên đảng CS Đông Dương để truyền bá
chủ nghĩa Cộng Sản, để thực hiện mộng thế giới đại đồng, trong đó sẽ không còn
biên giới quốc gia, không còn Tổ Quốc. Và thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh và đảng
CS Việt Nam đã thi hành đúng theo kế hoạch và gương của Liên Xô và các nứoc CS
khác, là lập nên Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cải Cách Ruộng Đất, hợp tác hóa nông, công,
thương nghiệp v.v...Tất cả những công trình này hoàn toàn nằm trong chương
trình xích hóa toàn cầu của Quốc Tế Cộng Sản, đứng đầu là Liên Xô, và trên thực
tế đó cụ thể là Liên Xô.
Vậy
Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam chiến đấu hao tổn hàng triệu sinh mạng, không
phải vì quyền lợi tổ quốc, mà chính vì để đoạt chính quyền hòng tiến hành thực hiện mộng thế giới đại đồng. Một ảo
mộng, không tưởng, nếu khối cộng thắng thì đã đưa Việt Nam và cả nhân loại lùi
vè thời kỳ đồ đá. Bởi vì tất cả các nước Cộng Sản, thường gọi là các nước xã
hội chủ nghĩa "anh em" khi áp dụng kinh tế chỉ huy theo mô hình
Mácxít đều dìm cả nước xuống đói nghèo, không ngóc đầu lên được. Về văn hóa,
đạo lý thì suy đồi đến cùng độ.
Như
vậy thì không thể nào bảo ông Hồ hay đảng CSVN có công to lớn đối với dân tộc
được. Chỉ cần nghe lời Khrutshchev ca tung ông Hồ và bảo nhân dân VN dưới sự
lãnh đạo của ông Hồ "đang hy sinh mạng sống mình cho chủ nghĩa CS",
đủ rõ ông ta và đảng của ông ta chỉ có công với Cộng Sản, chứ không hề có công
với dân tộc. Chúng ta phải kết tội ông ta đã hy sinh dân tộc cho một chủ nghĩa
ngoại lai, không tưởng, cho ý đồ xích hóa nhân loại.
Nhìn
qua lăng kính chiến tranh ý thức hệ CS toàn cầu, chẳng những vai trò và công
tội của Hồ được minh định rõ ràng chính
xác, mà vai trò, công lao của Tổng Thống Nixon cũng được xác định. Qua lăng
kính đó cuộc chiến Việt Nam sẽ phải gọi là chiến tranh quốc cộng, chứ không thể
là chiến tranh Việt Pháp như giáo sư Lê Xuân Khoa viết, hay chiến tranh chống
Mỹ cứu nước như Việt Cộng viết. Qua lăng kính đó chúng ta cũng sẽ hiểu vì sao
anh em ông Diệm đãng bằng mọi cách cố tránh sự can thiệp ồ ạt của quân tác
chiến Mỹ, khi chưa thực cần kíp; tại sao họ tính chuyện tiếp xúc với Hà Nội,
bàn chuyện hiệp thương, mặc dầu toan tính những chuỵện đó vô cùng nguy hiểm đến
sự tồn vong và tính mạng của mình. 12 năm sau chính phủ Nguyễn Văn Thiệu và
chính phủ Hoa Kỳ cũng đâu có tránh được truyện hòa đàm với đối phưong. Rồi đến
lượt Tổng Thống Mỹ Nixxon cũng hội đàm thương thuyết voới Liên Xô và Trung Cộng
để đi đến hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược gọi là Salt2, và thông cáo chung
Thượng Hải v..v... Và rồi tổng thống Nam Hàn Kim Đại Trọng (Kim Dae-Jung) cũng
đi gặp chủ tịch Bắc Hàn năm 2000 và đến nay đương kim Tổng Thống Roh Moo- Hyun
cũng thế. Như vậy có phải ông Diệm đã là người đi tiên phong áp dụng chiến pháp
phi quân sự trong chiến tranh ý thức hệ không? Nếu không hiểu ý nghĩa và thực
chất của chiến tranh ý thức hệ, thì sẽ bảo Tổng Thống Nixon, hay Tổng Thống
Diệm, các Tổng Thống Nam Hàn mắc mưu Cộng Sản, không có kinh nghiệm về đánh
đánh hòa hòa của CS. Đó là chúng tôi nói đến các cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống
Bush cha, rồi Giáo Hoàng John Paul II với lãnh tụ Liên Xô Maikael Gorbachev sau
này.
Khi
một số lớn đảng viên nhìn ra thực tế đó, nhờ được đồng bào hải ngoại ôn tồn,
khôn khéo thuyết phục, thì sớm muộn gì cũng sẽ có ngày tượng ông Hồ bị đánh sập
khắp nơi trong nước, chẳng khác gì tượng Lênin ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Lúc đó sẽ là lúc toàn dân thông cảm nhau. Cái gọi là cố gắng hòa hợp hòa giải,
sẽ tức khắc thành tựu. Có thế nước mới phú cường thịnh vượng bù đắp cho những
năm ngắc ngoải, trì trệ vì một ý thức hệ ngoại lai không tưởng.
Chú
thích:
(1) Xin xem Văn Nghệ Tiền Phong năm
2002.
(2) Xin xem Nhật báo Người Việt các ngày
28-2-05 và 22-3- 05, mục Diễn Đàn.
(3) Một trong những lý do khiến chúng tôi
chưa đưa ra một định nghĩa về chiến tranh ý thức hệ là vì đã có rất nhiều người
nhắc đến những từ này, nếu đặt vấn đề một cách nghiêm túc nhưng cũng chỉ nhắc
lại những từ đó, thì sẽ bị độc giả chê rằng, biết rồi khổ lắm nói mãi.
(4) Nói là ý thức hệ Cộng
Sản cho gọn. Chứ thực ra ý thức hệ Cộng Sản có rất nhiều nội dung khác nhau
và phức tạp kể từ nhi Mác và Ăng Ghen đưa ra cái gọi là chủ nghĩa Mácxít, không
có tên Ăng Ghen trong đó, nhưng thực ra Ăng Ghen là bạn thân của Mác đóng một
vai trò rất quan trọng không kém Mác bao nhiêu.. Rồi đến Lênin, ngưòi đã áp
dụng thuyết Mácxít vào thực tế chính trị lịch sử một cách quyết định khiến ý
thức hệ của Mác sau này mang danh xưng chủ nghĩa, hay ý thức hệ, Mác-Lênin. Rồi
còn ý thức hệ CS của Trotsky, của Mao Trạch Đông đều có chút gì thay đổi không
hoàn toàn như ý thức hệ Mác Xít ban đầu nữa. Nhưng tất cả đều là thứ yếu. Cái
cốt lõi là giai cấp đấu tranh, xóa bỏ quyền tư hữu, cách mạng bạo lực, chuyên chính
vô sản thì đều giống nhau.
(5)
Nói về trận chiến tư tưởng bắt nguồn từ ý thức hệ Mácxít cần có cả một
bộ sách nhiều tập. Ở đây chỉ xin nêu một vài tên tuổi nổi bật ở phía Thế Giới
tự do:
---
Giáo Hoàng Pio IX (1792- 1878): Trong Tông Huấn (Papal Encyclical) "Qui
Pluribus" ngày 6-11- năm 1846, bản Anh ngữ, đoạn 32 có câu: "It
is wholly contrary to natural law itself nor could it establish itself without
turning upside down all rights, all interests, the source of property and
society itself" (tạm dịch: (Cái tà đạo được mệnh danh là chủ nghĩa Cộng
Sản này) chính nó hoàn toàn trái luật tự nhiên. Nó không thể nào thành lập mà
không đảo lộn tất cả mọi quyền hành, quyền lợi, của cải và sản nghiệp của con
người và cả xã hội.)
--- Eugene von Bohm Bawerk (1851- 1914) nổi
tiếng với tác phẩm trứ danh Karl Marx and the chose of his system (1898),
trong đó ông dành chương đầu để cực lực đả phá thuyết giá trị thặng dư (plus
value) của Mác. Cho đến nay đã có 67,000 cuốn sách và khỏang 1,500,000 bài viết
nói về ông.
---V. Simkhovich được biết nhiều qua tác phẩm
"Chủ nghĩa Mác chống chủ nghĩa xã hội". Ông trưng dẫn chính Mác để
chứng minh cái gọi là chủ nghĩa xã hội của Mác đã phản lại lý tưởng xã hội của
loài người.
--- Edward Bernstein (1850-1932), cha đẻ
phong trào xét lại ý thức hệ cộng Sản. Chẳng những ông đả phá thuyết giá trị
thặng dư (Plus Value) và chủ trương đấu tranh giai cấp của Mác mà còn bác bỏ hoàn toàn khẳng định
của Mác là tư bản đang giẫy chết.
(6) 8 người mà chúng tôi được biết đã gọi cuộc
"chiến tranh lạnh" sau thế chiến II là thế chiến III gồm có:
Giáo Sư Robert Strausz-Hupé và 3 đồng tác giả cuốn “Protracted Conflict”, người điểm cuốn
sách đó là Max Eastman, nhà văn phản kháng Nga giải Nobel Alexander
Solzhenitsyn, Brian Crozier, tác giả cuốn Strategy of survival, và cố Tổng
Thống Richard M. Nixon.
Nói
về giai đoạn gọi là chiến tranh lạnh này cũng cần có một bộ sách nhiều tập vì
nó bao quát nhiều mặt, rộng lớn hơn thế chiến II bội phần. Sự thành hình, phát
triển và hoạt động của mỗi đảng trong tổng số 87 đảng CS trên khắp thế giói đã
chiếm một chương rồi. Mỗi hiệp ước ký kết giữa thế giới tự do và khối Cộng như Potsdam, Yalta, Munich hay
Brest-Litovsk v.v....cũng phải một chương. Mỗi chương trình kế hoạch của Thế
giới tự do như kế hạch Marshall nhằm cung cấp viện trợ 20 tỷ Mỹ Kim cho 16 nước
Tây Âu hòng lôi kéo giới nghèo, giai cấp lao động trong các nước đó, nhất là
Đức, Ý là hai nước bại trận, và có nhiều
đảng viên Cộng Sản (Ý) nhiều nhất thế giới. Rồi mỗi bước đi của Khối Cộng nhằm
bành trướng chủ nghĩa CS như nhắm vào lục địa Trung Hoa, vào Trung Mỹ... hay
nhằm bảo vệ khối cộng như tổ chức Comecon (Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế) ở Đông
Âu.....đều cần có một chương....Đó là không kể những trận chiến vũ trang tại
Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam phải gồm nhiều chương lớn khác.
Công
việc đó không nằm trong khuôn khổ một bài bào báo như bài này. Xin để cho các
sử gia thế chiến III đảm nhiệm.
(7) Xem The Real War của Nixon, NXB
Warner Books Inc. NY, 1980, trang 17
(8) Theo Seth Jacobs, tác giả cuốn "America's
Miracle Man in Vietnam, Tổng thống Eisenhower đã nhận Phép Rửa (Baptism) tại tòa Bạch Ốc.
(9) NXB Warner Books Inc, NY, 1980, trang 21.
(10) NXB Simon and Schuster, N.Y. 1988
(11) Xin xem Ngô Đình Diệm, Lời Khen Tiếng
Chê của Minh Võ, lần in thứ 3 năm 2002, trang 319 và 334.
(12) Trong chương 43, cuốn Hồ Chí Minh
nhận định tổng hợp, chúng tôi đã phân tích vấn đề này. Ở đây xin miễn nhắc
lại.
(13) Cho đến năm 1960 thì số các đảng CS trên
toàn thế giới đã tăng lên đến 87.
(14) Theo thuyết Mácxít thì chế độ xã hội
chủ nghĩa là chế độ "quá độ", tức chuyển tiếp, giữa chế độ tư bản
và chế độ CS. Chỉ khi nào giai cấp vô sản toàn thắng trên khắp thế giới thì chủ
nghĩa CS mới được thành lập.
(15) Trong bài viết về việc Miền Nam mất vào
tay CS, đăng trên báo Le Monde ở Pháp, ngày 1-5-1975.
(16) Hội nghị Thượng Hải giữa Nixon và Chu Ân
Lai năm 1972. Hội nghị Băng Đung giữa Ấn Độ, Trung Quốc, Indonedia, Ai Cập, Nam
Tư năm 1955. Hội nghị 2 K tại Vienna giữa Tổng Thống Kennedy và bí thư thứ nhất
Khrutshchev năm 1960.
(17) Mà họ thường nói văn hoa là "chủ
nghĩa yêu nước" (patriotism. Cứ thấy từ nào tận cùng bằng ism thì
dịch là chủ nghĩa!)
(18) Hai cán bộ văn hóa trong nước tên Nguyễn
Huệ Chi và Hoàng Ngọc Hiến.
No comments:
Post a Comment