Sunday, November 10, 2024

Chuyển giọng (tiếp theo)

 

Cách tạo thang âm trưởng nói ở bài trước

là cách đi theo quãng 5 LÊN.

Cách tạo thang âm trưởng theo quãng 5 Xuống.

Thay vì lấy Tứ Liên Âm Trên của thang âm Đô làm Tứ Liên Âm Dưới cho một thang âm trưởng mới và có thang âm Sol Trưởng, người ta lấy Tứ Liên Âm Dưới của thang âm Đô làm Tứ Liên Âm Trên để tạo thang âm khác. Khi này bậc I Trên của thang âm mới sẽ là Fa. Đặt thêm 4 bậc âm vào phía dưới (tạo tứ liên âm dưới) thành thang âm Fa tự nhiên. Để chuyển thành thang âm Fa Trưởng, âm Si (bậc IV) phải bị hạ thấp nửa cung. Khi này Si Giáng cách La bên dưới nửa cung và cách Đô bên trên một cung, vừa đúng khuôn mẫu của thang âm trưởng.

Để ý rằng thang âm (Fa) mới này có bậc IV bị Giáng (Si). Nói cách khác, thang âm Fa Trưởng chính là thang âm Fa Tự Nhiên có Bậc IV bị Giáng. Cũng để ý rằng Fa chính là Quãng Năm Đúng Xuống tính từ Đô.

Tương tự, người ta tạo ra các thang âm trưởng khác vẫn bằng cách lấy tứ liên âm dưới của thang âm cũ làm tứ liên âm trên cho thang âm mới rồi hạ thấp bậc IV của thang âm mới này để nó thành thang âm trưởng. Hoặc giải thích đơn giản hơn, để tạo một thang âm mới, người ta lấy bậc IV của thang âm trưởng (tức quãng 5 đúng bên dưới bậc I) làm bậc I cho thang âm mới và hạ bậc IV của thang âm mới xuống nửa cung.

Từ thang âm Đô Trưởng, tạo ra thang âm Fa Trưởng với âm Si. Từ Fa Trưởng tạo ra Si Giáng Trưởng với âm Mi. Từ Si Giáng Trưởng tạo ra Mi Giáng Trưởng với âm La...

Đọc thang âm từ trên xuống ta dễ hình dung ra tiến trình tạo mới này:


Thứ tự các thang âm trưởng lần lượt tạo được là Fa, Si Giáng, Mi Giáng, La Giáng, Rê Giáng, Sol Giáng, Đô Giáng, vân vân.

Và thứ tự các dấu Giáng là: Si, Mi, La, Re, Sol, Đô, Fa…


Tương tự việc dùng thang âm La Giáng Trưởng thay cho Sol Thăng Trưởng để tránh dấu thăng kép, người ta dùng thang âm Si Trưởng để thay cho thang âm Đô Giáng Trưởng, vì chúng là Đồng Âm.

Và như vậy, người ta không bao giờ dùng các thang âm có từ 7 dấu Thăng hay 7 dấu Giáng trở lên. Mà thay 7 thăng bằng 5 giáng, 8 thăng bằng 4 giáng, hay thay 7 giáng bằng 5 thăng, 8 giáng bằng 4 thăng (chú ý rằng tổng của chúng bằng 12).

Với cách tạo thang âm mới bằng vòng Quãng Năm Lên và Quãng Năm Xuống này, mà thứ tự dấu Thăng hay dấu Giáng phải viết như trên. Và khi thang âm cần bao nhiêu dấu hóa thì cũng viết theo trật tự đó.


Đối với bộ khóa dấu Giáng của một bản nhạc viết đúng nguyên tắc, tên của dấu Giáng Áp Chót chính là tên của thang âm trưởng mà bản nhạc sử dụng, hoặc nó là bậc III của thang âm thứ. (Bài có 2 dấu giáng là Si Giáng và Mi Giáng, dấu giáng áp chót là Si Giáng vậy thang âm trưởng là Si Giáng Trưởng; Si Giáng là bậc III của thang âm Sol Thứ.) Chú ý rằng nếu có 2 vật thì vật thứ nhất chính là vật áp chót. Riêng bộ khóa chỉ có 1 giáng, thì thang âm là Fa Trưởng hoặc Rê Thứ.

Có thể tổng hợp các thang âm trưởng (màu đen) và thứ (màu xanh) với bộ khóa của chúng theo một vòng tròn, Vòng Quãng Năm Đúng Đi Lên, với số dấu thăng tăng dần, rồi những thang âm đồng âm giữa bộ khóa thăng và bộ khóa giáng, và số dấu giáng giảm dần. Khởi đầu và kết thúc ở bộ khóa zero (toàn âm tự nhiên, không có thăng giáng).


Chuyển giọng.

Biết rằng thang âm thứ luôn bắt đầu bằng bậc VI của thang âm trưởng cùng bộ khóa[1]. Ta chỉ cần chuyển giọng một thang âm thứ bằng cách chuyển thang âm trưởng liên đới của nó. Khi có thang âm trưởng liên đới mới, thì bậc VI của thang đó chính là tên (bậc I) của thang âm thứ.

- Xác định thang âm gốc của bài nhạc bằng cách nhìn vào bộ khóa. (thí dụ bài có 2 dấu thăng, thì bậc I của thang âm là Rê).

- Chuyển tất cả các âm gốc lên hay xuống theo một khoảng cách cao độ bằng nhau. Và xét xem bậc I cũ chuyển thành âm gì thì âm chuyển thành đó chính là bậc I của thang âm mới và gọi tên nó theo bậc I đó (thí dụ bậc I cũ là Rê, chuyển thành âm Sol, thì bậc I mới là Sol, thuộc thang âm Sol Trưởng). Tính xem thang âm mới có bộ khóa ra sao (mấy thăng, mấy giáng) và ghi vào đầu bài. (thí dụ thang âm Sol Trưởng, có bộ khóa là 1 dấu thăng (Fa thăng).

Chuyển về Đô Trưởng.

Đưa bản nhạc về thang âm Đô Trưởng hay La Thứ (là thang âm tự nhiên) giúp dễ dàng hơn trong việc xướng âm.

Trước hết cần xác định bản nhạc viết ở thang âm trưởng nào qua bộ khóa của nó. Và xướng âm bậc I của nó bằng tên Đô theo thang âm Đô Trưởng. Các bậc khác thay đổi tương ứng. (Một bản nhạc có 3 dấu Thăng thì thang âm trưởng là La, thấy nốt La thì đọc là Đô, thấy Si đọc Rê, Đô Thăng thành Mi…). Vì dấu hóa thành lập (ở bộ khóa) ảnh hưởng toàn bài mà ta đã chuyển về Đô Trưởng thì coi như không có dấu hóa nữa. Chỉ khi trong bài có dấu hóa bất thường thì lúc đó mới phải tính.




[1] Hai thang âm trưởng và thứ có cùng bộ khóa là 2 thang âm liên đới (Related Scales) với nhau. Còn gọi là các thang âm họ hàng.

Thursday, November 7, 2024

Chuyển Giọng

 

Chuyển Giọng

(Transposition, dịch giọng, từ mới là “chuyển vị”)

Là việc dịch chuyển cao độ của một tập hợp các nốt nhạc sang cao độ khác bằng một khoảng cách như nhau. Nói cách khác, chuyển giọng là chuyển các nốt sang một cao độ khác mà vẫn giữ nguyên quan hệ về quãng giữa các nốt đó, tức là giữ nguyên cảm giác về cung thể và đường nét giai điệu và hòa âm. Một bản nhạc trầm quá không phù hợp với giọng ta thì ta có thể chuyển nó sang giọng cao hơn, và tất cả các phần đệm cũng phải chuyển theo. Đó là sự chuyển giọng.


Các vấn đề của việc chuyển giọng.

Cung (Whole Tone) nửa cung (Semi-tone).

Tập hợp các cao độ âm thanh tự nhiên từ thấp lên cao trong khoảng 1 Quãng Tám[1] được gọi tên là Đô Rê Mi Fa Sol La Si[2]. Nhưng khoảng cách cao độ giữa chúng lại có 2 kiểu. Khoảng nhỏ, là giữa Mi với Fa và giữa Si với Đô trên, được gọi là nửa cung. Cao độ giữa những nốt kế nhau còn lại thì có khoảng cách cao độ lớn gấp đôi khoảng nhỏ vừa nói, và gọi là một cung.

 

Dấu hóa (accidentals)

Như vậy, giữa những nốt cách nhau một cung có thể có một âm thanh khác ở giữa, tức là âm có cao độ giữa nốt trên và nốt dưới. Những nốt này được gọi tên bằng cách dùng dấu hóa. Dấu Thăng (sharps) để bảo rằng âm này cao hơn nửa cung so với dấu nhạc được ghi. Đô Thăng cao hơn Đô nửa cung. Dấu Giáng (flats) để bảo rằng âm này thấp hơn nửa cung so với dấu nhạc được ghi. Si Giáng thì thấp hơn Si nửa cung.

Như vậy âm thanh có cao độ ở giữa 2 âm tự nhiên kế nhau thì có thể được gọi bằng 2 tên khác nhau. Hoặc là thăng nốt thấp, hoặc là giáng nốt cao.


 Thang Âm (Scales, hay Thang Dấu, Âm Giai, hay Gam)

Là hệ thống các âm cơ bản được sử dụng để tạo thành khúc nhạc, sắp xếp từ thấp lên cao. Vì mỗi âm thanh đều chỉ mang một trong 7 tên, nên một thang âm chỉ cần có 7 bậc cộng thêm bậc I của quãng Tám bên trên để chỉ ra quan hệ của bậc cuối với bậc đầu và không gọi bậc I này là bậc VIII. Tên của thang âm là tên nốt của bậc đầu (bậc I).

Dưới đây là vài thang âm tự nhiên (không có dấu hóa).

 

7 thang âm tự nhiên thì có trật tự cung và nửa cung khác nhau. Trật tự này tạo nên đặc tính của mỗi thang âm do sức hút của các nửa cung và sự vững chãi của bậc V (là âm bồi[3] gần nhất của bậc I). Để phân biệt các đặc tính của thang âm, người ta đặt cho mỗi loại một tên riêng, như trong bảng dưới đây.

Bậc I

Tên theo tính chất

Nửa Cung ở giữa các bậc

Thang âm Đô

Ionian

III - IV

VII - I

Thang âm

Dorian

II - III

VI - VII

Thang âm Mi

Phrygian

I - II

V - VI

Thang âm Fa

Lydian

IV - V

VII - I

Thang âm Sol

Mixolydian

III - IV

VI - VII

Thang âm La

Aeolian

II - III

V - VI

Thang âm Si

Locrian

I - II

IV - V

Trong số 7 thang âm tự nhiên đó, 2 thang âm thông dụng nhất là Thang âm Đô và Thang âm La. Vì đặc tính của quãng nhạc (intervals) và hòa âm (harmony) mà chúng được gọi là Thang âm Đô Trưởng (C Major Scale) và Thang âm La Thứ (A Minor Scale).

Cách tạo thang âm trưởng.

Người ta tạo ra các thang âm trưởng khởi đi từ bất kỳ âm nào bằng cách thăng hay giáng các bậc, sao cho trật tự cung y hệt như của thang âm Đô Trưởng. Tức là lấy thang âm Đô tự nhiên làm mẫu. Tương tự với thang âm thứ. Và gọi tên các thang âm đó bằng tên của bậc I và tên tính chất đi kèm: Thang âm Mi Trưởng, Thang âm Sol Trưởng, Thang âm Si Thứ, Thang âm Rê Thứ, vân vân.

Vì thang âm Đô Trưởng và La Thứ cùng là thang âm tự nhiên (không có âm bị thăng hay giáng) nên khi tạo được một thang âm trưởng, ta cũng có một thang âm thứ tương ứng bắt đầu từ bậc VI của thang âm trưởng đó[4]. Phần sau đây không đề cập đến thang âm thứ nữa.

Trật tự cung và nửa cung giữa các bậc của Thang Âm Trưởng, tính từ bậc I, lên đến bậc I trên, là:

Cung - Cung - Nửa Cung - Cung - Cung -  Cung - Nửa Cung

Tổ chức đó có thể chia thành 2 phần giống nhau và cách nhau Một Cung. Gọi một phần, gồm 4 bậc âm, là một Tứ Liên Âm (tetrachord, 4 âm kề nhau). Tứ Liên Âm Dưới khởi đi từ Bậc I. Tứ Liên Âm Trên khởi đi từ bậc V.

Vậy một thang âm trưởng gồm 2 tứ liên âm giống nhau (Một, Một, Nửa) cách nhau một cung. Ở thang âm Đô Trưởng thì Tứ Liên Âm Trên khởi đi từ âm Sol.


Sẵn cấu trúc của 2 Tứ Liên Âm giống nhau trong thang âm Đô Trưởng, coi Tứ Liên Âm Trên như là Tứ Liên Âm Dưới của một thang âm mới, nó khởi đi từ Sol, ta sẽ có Thang Âm Sol. Nhưng để Tứ Liên Âm Trên của Sol này theo đúng cấu trúc mẫu, thì bậc VII (âm Fa) của nó cần phải nâng lên nửa cung (Mi - Fa chỉ có nửa cung, vậy phải thăng Fa để có được khoảng cách một cung, đồng thời Fa - Sol là nửa cung). Vậy khi tất cả các âm Fa đều bị thăng và thang âm khởi đi từ Sol, ta có thang âm Sol Trưởng.


Tương tự, lấy Tứ Liên Âm Trên của Sol Trưởng làm Tứ Liên Âm Dưới thì có được Thang Âm Rê, thăng bậc VII (âm Đô) lên thì thành Thang Âm Rê Trưởng có 2 âm bị hóa là Fa và Đô. Tương tự, thang âm La Trưởng làm từ Rê Trưởng với 2 âm bị thăng (Fa và Đô) thêm âm Sol Thăng là 3 âm bị thăng.

Tuy khái niệm Tứ Liên Âm rất quan trọng trong lý thuyết sáng tác và hòa âm. Nhưng có thể bỏ qua và nhận xét rằng lấy bậc V của một thang âm trưởng làm bậc I cho thang âm mới thì chỉ cần thêm một dấu thăng vào bậc VII của thang âm mới. Từ Đô Trưởng tạo ra Sol Trưởng với Fa, từ Sol Trưởng tạo ra Rê Trưởng thêm Đô, rồi La Trưởng thêm Sol, Mi Trưởng thêm Rê, Si Trưởng thêm La, rồi Fa Trưởng thêm Mi, rồi Đô Trưởng có Si.

Các thang âm mới xuất hiện tuần tự theo bậc V của nhau. Gọi là Vòng Quãng 5[5] (Circle of Fifths)[6]. Ta có tuần tự các thang âm Trưởng: Đô, Sol, Rê, La, Mi, Si, Fa, Đô,... Và thứ tự các dấu thăng cũng cách nhau theo quãng 5 Đúng. Chúng là, theo thứ tự: Zero, Fa, Đô, Sol, Rê, La, Mi, Si…


Trong tiến trình thành lập thang âm trưởng mới, các âm bị thăng xuất hiện theo thứ tự: Fa, Đô, Sol, Rê, La, Mi, Si, Fa♯,[7] Đô., vân vân.. như sau:


Để nhận ra thang âm của bản nhạc viết đúng nguyên tắc, chỉ cần xét dấu thăng cuối cùng. Như đã biết, dấu thăng này là ở bậc VII của thang âm. Từ nó, tính thêm một bậc nửa cung nữa thì được bậc I, tức là tên của thang âm. Thấy dấu thăng cuối là La thì thang âm là Si Trưởng, vì từ La lên nửa cung là Si.

Với 7 dấu thăng, thang âm là Đô Thăng Trưởng. Bậc V của nó là Sol Thăng. Lập thang âm Sol Thăng Trưởng bằng cách nâng bậc 7 của nó (vốn là Fa♯) lên thêm nửa cung bằng cách dùng dấu Thăng Kép !.


Trong thực tế trên mọi loại nhạc cụ, âm Sol Thăng có cao độ y hệt âm La Giáng. Nên thay vì viết ở thang âm Sol Thăng Trưởng, người ta sẽ viết ở thang âm La Giáng Trưởng. Hay thay vì Đô Thăng Trưởng, sẽ viết thành Rê Giáng Trưởng. Lúc đó sẽ không phải dùng đến dấu thăng kép hay quá nhiều dấu thăng, mà sẽ dùng dấu Giáng (Flats).



[1] Quãng Tám (Octave) là khoảng cách cao độ giữa một âm và âm cao hơn có tần số gấp đôi nó. Âm thanh có tần số gấp đôi nhau thì nghe rất giống nhau; tuy âm cao hơn thì trong trẻo hơn và cứng hơn âm thấp. Vì vậy các tên nốt được lặp lại để gọi cho các nốt ở quãng tám trên hay dưới. Và ta có chuỗi tuần hoàn 7 tên nốt.

[2] Si có thể bị đổi thành Ti để tránh nhầm lẫn khi viết tắt: D R M F S L T. Và thuở ban đầu, người ta dùng 7 chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái Latin để gọi tên âm thanh tự nhiên. A, B, C, D, E, F, G. Trong đó, A chính là La sau này.

[3] Âm bồi: Harmonic Sounds, là các âm thanh có tần số là bội số của một âm nào đó, chúng vang lên song song với âm đó nhưng rất yếu.

[4] Hai thang âm khác tên nhưng cùng bộ khóa được gọi là 2 thang âm Tương Ứng (Relative Scales). Hai thang âm cùng tên (cùng bậc I) nhưng tính chất khác nhau được gọi là 2 thang âm Song Song (Parallel Scales).

[5] Để gọi tên quãng, phải tính cả bậc đầu và bậc cuối, quãng giữa 2 âm Đô và Rê là quãng 2; giữa Đô và Mi là quãng 3; quãng giữa âm Đô và chính nó là quãng 1 nhưng được gọi chính thức là quãng Đồng Âm.

[6] Quãng 5 ở đây được hiểu là quãng 5 Đúng (Interval of Perfect Fifth) tức là gồm 3 cung rưỡi. Nếu thiếu nửa cung, thì phải thăng âm trên, dư nửa cung thì giáng âm trên.

[7] Nâng thêm nửa cung cho một âm đã bị thăng thì dùng dấu Thăng Kép (Double Sharps)