Những điều người chơi guitar cổ điển ít để ý.
2. Âm Bồi
(Harmonic Sounds)
Âm Bồi hay Họa Âm, Bồi Âm, là âm thanh có tần số gấp
đôi, gấp ba, gấp tư, năm... lần tần số của đoạn dây rung. Âm bồi có âm lượng
rất nhỏ nên tai thường không nghe thấy, nhưng số lượng âm bồi và cường độ của
chúng góp phần tạo nên âm sắc của tiếng đàn.
Kỹ thuật chơi âm bồi là kỹ thuật loại bỏ âm thanh
gốc để bắt dây rung theo tần số của âm bồi bằng cách tạo ra nút chấn động tại
một trong những điểm chia đôi, chia ba, chia tư, năm, sáu của sợi dây. Phương
pháp là dùng thịt của ngón tay (tay trái, hoặc tay phải cũng được) chạm nhẹ vào
điểm sẽ là nút chấn động, và gẩy dây.
Sáu âm bồi (bội âm) của âm cơ bản Đô.
Nếu dùng tay trái để chạm dây và khẩy bằng ngón phải
thì kỹ thuật này được gọi là “natural
harmonics”.
Khi dây bị bấm bằng ngón trái, và dùng tay phải chạm
dây bằng ngón trỏ (i) và khẩy bằng ngón áp út (a). Bấm nốt nào thì chạm vào
ngăn đàn của nốt cao hơn nốt đó một quãng 8, tức cách xa 12 ngăn đàn. Kỹ thuật
này được gọi là “octave harmonics.
Vì các nút chấn động (để tạo âm bồi) là các vị trí chia đều sợi dây (chia 2, 3, 4, 5, 6...) trong khi vị trí phím hoàn toàn không dựa vào việc chia đều mà lại theo tỉ lệ căn bậc 12 của 2 (tức là hay 21/12 , hay Power(2,1/12), tức là 1.059463), nên các điểm để tạo thành âm bồi không nhất thiết phải ở ngay trên phím. Người ta nói “âm bồi ở ngăn thứ... ” chỉ để nói lên vị trí gần đúng mà thôi. (Xem hình dưới và chú ý các số đo ghi ở đó.)
Âm bồi thứ
nhất có tần số đúng bằng gấp đôi âm cơ bản, tức là cao hơn một quãng Tám
Đúng. Nút chấn động ở chính giữa đoạn dây, tức là ở phím thứ XII.
Âm bồi thứ
hai có tần số gấp 3 âm cơ bản, là tần số trên âm cơ bản một quãng 12, tức
là quãng Năm Đúng ở bát độ bên trên. (Nếu âm cơ bản là Đô, thì bội âm này là
Sol cao). Nhưng trong hệ điều hòa, quãng 12 này có tần số nhỏ hơn tần số của âm
bồi thứ hai này vài Hertz. Có 2 điểm chia ba để tạo nút cho âm bồi này, ở phím
thứ VII và ở phím XIX. Chỉ cần chạm dây tại một nút, nút
kia sẽ tự động hình thành.
Âm bồi thứ ba
có tần số gấp bốn âm cơ bản, tức là cao hơn âm cơ bản 2 quãng 8 Đúng. Nút chấn
động được tạo ở điểm chia tư của đoạn dây, tính từ đầu nào cũng được. Nhưng tạo
nút ở phía ngựa đàn thì khó hơn vì không có điểm tham chiếu, trong khi điểm kia
ở sát với phím thứ V, dễ nhận ra
hơn.
Âm bồi thứ tư
có tần số gấp năm âm cơ bản, cao hơn âm cơ bản 2 bát độ cộng quãng 3 Trưởng.
(Nếu âm cơ bản là Đô, thì âm bồi này là Mi cách 2 bát độ.) Tương tự âm bồi thứ
hai, âm bồi thứ tư này có tần số thấp hơn một chút so với âm cùng tên của hệ
điều hòa. Có 4 vị trí để tạo nút cho âm bồi này, nhưng 3 vị trí ở trên cần là
các phím IV, IX và XVI thì dễ xác
định hơn. Chú ý rằng các nút này không nằm đúng tại các phím đó mà hơi lùi về
phía đầu đàn khoảng 3-4 mm.
Tần số của âm bồi thứ năm gấp 6 lần âm cơ bản, cao hơn âm bồi thứ hai một bát độ, tức
là cùng tên (Sol). Nút chấn động ở xa hơn phím III một chút, lệch gần 5 mm về phía đuôi đàn. Có một nút chia 6 ở
phía ngựa đàn nhưng khó xác định vị trí. Và 3 nút kia chia dây thành 3 hay 2
phần chứ không phải 6. Âm bồi này hiếm dùng.
Để ý rằng những âm bồi này (là những âm thanh nằm
sẵn trong âm gốc) tạo thành hợp âm Trưởng, là hợp âm nghe đầy đặn và vang,
sáng.
Âm bồi thứ
sáu có cao độ tương đương nốt Si Giáng nếu âm gốc là Đô. Nếu đưa nốt này
vào hợp âm Đô Trưởng thì sẽ thành Đô Bẩy (C Dominant Seventh). Vì vậy nhiều lý
thuyết gia hiện đại coi hợp âm bẩy loại này là hợp âm thuận, trong khi theo
truyền thống nó được coi là nghịch.
Có thể chơi nhiều âm bồi trên các dây khác nhau cùng
một lúc. Với âm bồi nhân tạo (octave harmonics), khi khẩy nó bằng ngón áp út ta
có thể thêm bè trầm bằng ngón cái (p) và thêm bè nhì bằng ngón giữa (m) trong
khi dùng ngón trỏ (i) để chạm dây.
No comments:
Post a Comment