Tiếng Việt Vỡ Lòng: Đánh Vần
Phàm lệ: Để viết và đọc bài này, chúng ta mặc nhiên tuân thủ qui trình
nghe-nói-đọc-viết trong việc học ngôn ngữ. Và bài này chỉ nhằm hình thành quan
điểm để dạy đọc chữ Việt cho người đã biết nói tiếng Việt.
Hai tiếng “đánh vần” thường
được dịch sang tiếng Anh là “spell” thực ra không đúng. “Spell” chỉ có nghĩa là
gọi tên lần lượt từng chữ cái trong một từ mà thôi. Người Âu Châu không có khái
niệm “đánh vần” của Việt Nam vì họ không bao giờ “đánh vần”.
“Đánh vần” là một từ bình
dân, có từ “đánh” dùng trong “đánh tráo”, “đánh đu”, “đánh đàn”... Từ “đánh
vần” dùng để chỉ hoạt động nối các vần có sẵn với phụ âm đầu để thành tiếng
trong khi học Việt Ngữ, hoạt động này còn được gọi là “ghép vần”. Tuy nhiên
muốn “đánh vần” thì phải thuộc lòng cách phát âm của tất cả các vần mà việc
thuộc lòng này lại đòi hỏi một quá trình học khá vất vả. Việc “đánh vần” chỉ có
thể làm được sau khi “học vần” tức là học ghép âm để tạo vần.
Vần là một đơn vị âm độc lập
bắt đầu bằng nguyên âm và có thể kết thúc bằng phụ âm, không phân biệt thanh điệu.
(Thí dụ “người” và “cưới” có cùng vần “ươi”; “răng”, “trắng”, “bằng” có cùng
vần “ăng”; và dĩ nhiên “a”, “ca”, “ba” có vần “a”.) Vần ở đây không giống vần
(theo trắc bằng) trong thi ca. Sự “hiệp vần” là việc sắp xếp vần trắc bằng[1] giống nhau ở một
số vị trí trong các câu thơ kế tiếp nhau. Khái niệm về “vần” thì ngôn ngữ nào
cũng có (có thể tra trong appendix “Rhyme” của các từ điển).
Đặc điểm của vần Việt Ngữ:
Vần có thể chỉ là một nguyên
âm. (Như đã
biết, có 11 nguyên âm viết bởi 12 mẫu tự. Tuy nhiên ă và â không thể đứng một
mình để tạo thành vần vì 2 chữ cái này có âm ngắn.) Có 9 vần nguyên âm đơn.
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
a
|
e
|
ê
|
i
|
o
|
ô
|
ơ
|
u
|
ư
|
Vần có thể là nguyên âm đôi. (Không cần xét đến việc các
chữ cái biến thành bán nguyên âm khi ghép). 2 âm nguyên kề nhau tạo thành vần
nguyên âm đôi (có một số tổ hợp không có trong tiếng Việt như “ae”, “oê”,
“io”... và có một số tổ hợp chỉ hiện hữu nếu có thêm âm sau như iê/yê, oă, uô,
uâ, ươ): Có 24 vần nguyên âm đôi (nhị trùng âm, diphthong):
1
|
ai
|
hai
|
9
|
ia
|
bia
|
17
|
ua
|
cua
|
||
2
|
ao
|
bao
|
10
|
iu
|
thiu
|
18
|
uê
|
huê
|
||
3
|
au
|
đau
|
11
|
oa
|
hoa
|
19
|
ui
|
chui
|
||
4
|
ay
|
tay
|
12
|
oe
|
khoe
|
20
|
uơ
|
huơ tay
|
||
5
|
âu
|
câu
|
13
|
oi
|
coi
|
21
|
uy
|
duy
|
||
6
|
ây
|
cây
|
14
|
oo
|
boong
|
22
|
ưa
|
cưa
|
||
7
|
eo
|
beo
|
15
|
ơi
|
bơi
|
23
|
ưi
|
gửi
|
||
8
|
êu
|
rêu
|
16
|
ôi
|
đôi
|
24
|
ưu
|
mưu
|
Vần có thể là nguyên âm ba: (Vần “uya” khi có phụ âm
sau thì biến thành “uyê”, vậy nên “uya” không bao giờ có phụ âm sau. Vần “iêu”
khi không có phụ âm phía trước mà vẫn thành tiếng thì viết thành “yêu”: “i” đổi
thành “y”.) Có 10 vần nguyên âm ba (tam trùng âm, triphthong) nếu không kể "oao" trong chữ duy nhất "ngoao" mô tả tiếng mèo kêu:
1
|
iêu
|
liêu xiêu
|
6
|
uya
|
khuya
|
|
2
|
oai
|
xoài, khoai
|
7
|
uây
|
nguẩy
|
|
3
|
oay
|
loay hoay
|
8
|
uyu
|
khúc khuỷu
|
|
4
|
oeo
|
ngoằn ngoèo
|
9
|
ươi
|
đười ươi
|
|
5
|
uôi
|
đuôi
|
10
|
ươu
|
hươu
|
Vần có thể có phụ âm cuối.
Có 8 phụ âm được dùng ở cuối
từ. Chúng không được phát âm trọn vẹn mà chỉ vừa đủ để gây ảnh hưởng vào nguyên
âm đứng trước. (Thế nên có người gọi các phụ âm này bằng những thuật ngữ như
“tắc”, “bập vào”, “bật ra”... để nhấn mạnh rằng các phụ âm cuối này không ảnh
hưởng đến nguyên âm của tiếng kế tiếp nếu có.)
1
|
c
|
ác, éc, óc, ắc
|
5
|
m
|
am, im, bom,
|
|
2
|
ch
|
ách, ếch, ích
|
6
|
n
|
an, in, con
|
|
3
|
p
|
áp, úp, ấp, ắp, híp, xếp
|
7
|
ng
|
đang, sung, leng-keng
|
|
4
|
t
|
át, hét, hót, cắt, cất
|
8
|
nh
|
đanh, binh, lênh-đênh
|
Chỉ có một số các tổ hợp
nguyên âm ghép với một số phụ âm cuối nhất định chứ không ghép tự do (ví dụ
không có vần “unh”; không có vần “oă” nhưng tổ hợp “oă” lại gắn với phụ âm
thành “oăn” hay “oăt”, “oăc”...), thế nên số vần có phụ âm cuối không phải là
(9 nguyên âm + 24 nhị trùng
+ 10 tam trùng) x 8 phụ âm = 43 x 8 = 344 vần,
mà trong thực tế chỉ có
khoảng 163 vần. Nói “khoảng” là vì càng ngày càng có thêm vần mới được xử dụng.
(Xem bảng vần ở cuối bài).
Vần tiếng Việt luôn mang
thanh
(ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng). Nhưng các vần có phụ âm cuối “c”, “ch”,
“p”, “t” thì chỉ mang 2 thanh là thanh-sắc và thanh-nặng. Nếu đếm tất cả vần
mang thanh khác nhau trong thực tế sử dụng thì có khoảng 640 vần. (Không phải
160 x 6 = 960 vần).
Ghép vần:
Dùng một vần có sẵn để ghép
vào sau một phụ âm nào đó để tạo thành tiếng thì được gọi là ghép vần:
Ghép vần “ười” với phụ âm
“c” sẽ được tiếng “cười”; ghép vần “uống” với phụ âm “l” sẽ được tiếng “luống”,
vân vân.
Một vần không ghép sau phụ
âm nào cũng có thể tạo thành tiếng (tiếng này bắt đầu bằng nguyên âm): những
tiếng “ao”, “ủa”, “ăn”, “uống”... chẳng hạn.
Việc “ghép vần” chỉ có thể
làm được sau khi “học vần” tức là học ghép âm để tạo vần.
Có 2 cách học vần:
a) Thính thị trực tiếp: người học nghe phát âm của
từng vần và nhớ thuộc lòng, không lý giải, không nhận xét tại sao vần phải được
phát âm như thế. Cách này hiện rất phổ biến và hầu như là cách duy nhất để dạy
tiếng Việt cho người ngoại quốc.
- Ưu điểm là dễ dạy vì giáo
viên không cần có kiến thức về ngữ âm, và không cần đi sâu vào chi tiết; nhất
là khi gặp các ngoại lệ viết một đàng đọc một nẻo thì không cần giải thích.
- Nhược điểm: dẫn tới cách
phát âm địa phương, đôi khi bị “nhà quê hóa”: Thầy có giọng Nghệ An thì học trò
sẽ phát âm giọng Nghệ An. Rất khó học vì phải thuộc lòng đến 163 vần. Không thể
phát âm được các vần tuy hợp lý nhưng không có trong tiếng Việt (như vần “ưm”,
“oao” “uyn” “uýp”, “uốp”, “uym” hoặc “uêu”, “uên”). Quan trọng nhất là cách này
thường dẫn đến yếu kém về chính tả (vì có nhiều âm đọc na ná như nhau).
b) Ráp từng chữ cái: người học tự ráp các âm có
trong vần từ trái sang phải, hình thành cách phát âm của mình rồi đối chiếu với
vần nghe được từ người dạy. Cách này được áp dụng ở miền Nam trước những năm
1970 nhưng không biết tại sao nay chỉ còn được áp dụng bởi các gia sư hay các
bậc phụ huynh dạy con tiếng Việt.
Ví dụ để học vần “oa”, người
học đọc to âm “o” rồi kéo dài vào âm “a” sau nó. (Không đọc thành 2 tiếng “o”
và “a” rời rạc.) Gặp vần “uông”, người học đọc “u” kéo dài vào “ô” rồi “ng(ờ)”
và thành “uông”.
- Nhược điểm: Người học khó hình dung được phương pháp. Dẫn đến khó dạy (khó dạy
cũng vì giáo viên phải nắm vững ngữ âm học). Có nhiều ngoại lệ nên nếu sắp xếp
thứ tự bài dạy không chính xác sẽ dẫn người học đến ngộ nhận. Không thể dùng
cách này để giúp người ngoại quốc học tiếng Việt vì sẽ đưa họ tới cách phát âm
nhừa nhựa, lơ lớ và cũng vì họ dễ đưa đặc điểm phát âm của tiếng mẹ đẻ vào.
- Ưu điểm: Người học chỉ cần nhớ âm của bộ mẫu tự Việt nên dễ học, có thể đọc
được bất kỳ âm nào viết được trong tiếng Việt, không bao giờ quên vì không cần
vận dụng trí nhớ. Người học có cách phát âm riêng của mình và thường là rất
phân biệt nên không mắc lỗi chính tả khi viết. Ưu điểm quan trọng là việc học
theo phương pháp này dẫn đến một lối phát âm rõ ràng, gọi là “lối phát âm chính
tả” thường thấy trong giới khoa bảng trong bất kỳ ngôn ngữ nào (phải vào các
trường đại học phương Tây mới thấy lối phát âm này, chứng tỏ người Tây phương
học cách phát âm khoa bảng rất trễ, không như người Việt ta, nếu áp dụng phương
pháp này thì ngay học sinh cấp 2 đã bắt đầu có cách phát âm khoa bảng rồi.)
(Tạm dùng chữ “khoa bảng” để dịch từ “academic”.)
Ghép Âm
Ưu điểm của chữ Việt, một
thứ chữ phiên âm, là nó cho phép người dùng ráp âm xuôi theo chiều đọc (từ trái
sang phải) để tạo thành tiếng, đúng với cách đọc phiên âm của hệ thống IPA
(International Phonetic Alphabet). Tuy có vài ngoại lệ nhưng các ngoại lệ này
cũng dễ nhớ và không nhiều.
Do đó việc ghép âm để tạo
thành vần có thể được thực hiện chung với phụ âm đầu từ và trở thành cách “đánh
vần xuôi”, không đơn thuần chỉ là “ghép âm xuôi”.
Ghép xuôi từng âm từ trái qua phải,
giống cách đọc phiên âm quốc tế, sau đó ghép thêm dấu giọng và thành tiếng: ví
dụ: Rờ – ư – Rư – ơ – Rươ – u – Rươu – nặng – Rượu (đánh vần bằng âm của chữ
chứ không phải bằng tên chữ).
bước 1
|
bước 2
|
bước 3
|
bước 4
|
bước 5
|
|
ngoài
|
ng
|
ngo
|
ngoa
|
ngoai
|
ngoài
|
rượu
|
r
|
rư
|
rươ
|
rươu
|
rượu
|
nghiêng
|
ngh
|
nghi
|
nghiê
|
nghiêng
|
Người học trước tiên cần nhớ
âm của từng mẫu tự, cộng thêm âm của các phụ âm đơn và các phụ âm ghép như
“ch”, “gi”, “gh”, “kh”, “nh”, “ph”, “qu”, “th” và “tr”. Cũng cần nhớ đặc tính
của từng phụ âm cuối, phân biệt chúng với nhau bằng cách đặt môi, lưỡi đúng
chỗ.
Lại cần phải chú ý đặc điểm
của “y” và 4 ngoại lệ phát âm liên quan đến “a”. Cụ thể như sau:
-
“y” mang âm nguyên [i:] nhưng nó làm nguyên âm đứng trước (nếu có) ngắn lại. Nên phải đọc nhanh âm
nguyên trước “y”:
“tay” đọc thành [tăi], trong
khi “tai” đọc là [tai]
“tuy” đọc thành [twi/tŭi],
trong khi “tui” đọc là [tui]
“tây” đọc thành
[tâi], trong khi “tơi” đọc là [tơi]
- “cau”
đọc là [kău]: âm a bị ngắn lại, khác với “cao” đọc là
[kao/kau].
- “kia” đọc
là [ki:ơ/kiâ] chứ không phải [ki:a]
- “xưa”
đọc là [xươ/xưâ] chứ không phải [xư:a]
- “xua” đọc là [xuơ/xuâ], khác với “xoa” đọc là
[xoa/xwa]
(Ghi
chú: “ă” là “a” ngắn, “â” là “ơ” ngắn, “ŭ” là “u” ngắn.)
Ghép vần ngược
Xác định phần nguyên và phụ
âm cuối (gọi là “vần”) trước, xong ghép phần phụ âm phía trước vào rồi bỏ dấu
để thành tiếng. Ví dụ: iêng – ng(ờ) – iêng – nghiêng.
bước 1
|
bước 2
|
bước 3
|
|
ngoài
|
oai
|
ngoai
|
ngoài
|
rượu
|
ươu
|
rươu
|
rượu
|
nghiêng
|
iêng
|
nghiêng
|
Cách này thoạt nghe thấy dễ vì chỉ có 3 bước, thậm
chí 2 bước trong từ “nghiêng” không có dấu thanh, nhưng để làm được, người đọc
phải thuộc lòng tất cả các vần (lên đến 163 vần)[2].
Vài nhận xét về cách ghép vần tiếng Việt để phát âm
Không ai đọc một thứ chữ nào
mà lại ngồi tỉ mẩn ghép từng con chữ thành từ, đọc to lên rồi mới hiểu từ đó.
Thực tế quá trình đọc là chụp hình các từ hay cụm từ, nối kết chúng và hiểu
nghĩa của câu. Hoạt động ghép vần chỉ có trong trẻ Việt bắt đầu tập đọc chữ
Việt. Khi người ngoại quốc học tiếng Việt, họ có thể không cần tập hoạt động
này mà sẽ học thuộc lòng từng từ một như khi ta học tiếng Anh hay tiếng Pháp.
Tuy nhiên, người Việt tập ghép vần và dần thành thói quen, rồi hình thành các
quan điểm về hệ thống tiếng Việt. Có thể nói các nhận định về tiếng Việt của
các nhà ngữ âm học cũng bị ảnh hưởng do quá trình ghép vần thời niên thiếu.
Sử dụng cách ghép vần ngược
để dạy tiếng Việt cho trẻ em từ sau năm 1970 ở miền Nam và không biết từ hồi
nào ở miền Bắc dẫn đến sự sợ hãi môn ngữ âm ở sinh viên đại học ngữ văn ngày
nay. Nó cũng làm các nhà nghiên cứu ngữ âm tưởng lầm chữ Việt cũng giống như
các thứ chữ của ngôn ngữ khác trong hệ thống La Tinh, đặc biệt là tiếng Anh hay
tiếng Pháp có cách viết một đàng đọc một nẻo. Rồi họ phải mượn các ký hiệu
phiên âm của IPA để phiên âm lại chữ Việt. Điều này giống chuyện tìm cách phiên
âm các ký hiệu phiên âm.
Không thể đánh vần xuôi
trong tiếng Anh. Khi đọc lên mà cứ phát âm từ từ theo thứ tự chữ cái thì rối
tung: ha đọc là [ha], nhưng hat đọc là [hæt], rồi hate lại
đọc là [hêt]; hay he đọc là [hi] nhưng her là [hơ:] và here
lại là [hiơ:]. Chưa nói đến việc những chữ có cách phát âm đúng luật rất hiếm.
Thế nên người học tiếng Anh có cái khổ là phải học thêm bộ kí tự phiên âm quốc
tế. (Khốn thay bộ kí tự này lại ngày càng cải thiện, thay đổi liên tục.) Hay
tiếng Pháp: “femme” lại đọc là [fa:m], “un” đọc là [œõ] nhưng “une” lại là [ÿn]. Thế nên con nít Anh Pháp
lệ thuộc vào cách đánh vần ngược khi học mẫu giáo: tất cả những từ có đuôi giống
nhau thì phát âm giống nhau: cat, bat, hat, fat, pat, rat cùng vần [æt]; bate,
hate, fate, late, rate cùng vần [êt]; une, lune, prune cùng vần [ÿn]; vân vân... Nhưng tiếng
Việt không thế: tổ hợp “oa” chẳng hạn, dù sau nó có thế nào đi nữa thì nó vẫn
mang âm [oa] như “oan” [oan], “oai” [oai], “oam” [oam], “oạt” [oạt], người
đọc có thể yên chí về âm của phần đã ráp được, chỉ lo đi tiếp tới âm phía sau
cho đến khi xong từ.
Có ý kiến cho rằng việc ghép
vần xuôi cho ra cách phát âm buồn cười do đọc chậm quá, như “cười” biến thành
“cư-ời” hay “cừa-i”. Điều này có thể xảy ra nhưng do người đưa ra ý kiến đó
chưa hiểu cách đọc phiên âm hoặc chưa có kinh nghiệm tự thân đọc phiên âm khi
học ngoại ngữ. Nếu người này tra phiên âm tiếng Anh rồi đọc to lên thì mọi
người sẽ “cưa-ì” vào mặt anh ta. Chẳng hạn “scout” có phiên âm [skaut] lại đọc
thành “sờ-ca-út” hay “sờ-cau-tờ” hoặc thậm chí “sậc-cáo-tờ” (nghe như “suck out
her”) thì người ta sẽ không biết anh ta bú cái gì ra. Ý kiến nói trên phát xuất
chẳng qua là từ thói quen “lấy thúng úp voi” đó thôi. Muốn đọc phiên âm trước
hết phải từ từ, sau khi các âm đã lần lượt vang đủ trong đầu rồi mới phát âm
nhanh lên, phải chấp nhận việc nhị trùng âm biến thành 2 vần, rồi đọc nhanh 2
vần đó thì sẽ có nhị trùng âm; trường hợp tam trùng âm cũng thế: từ 3 vần thành
2 trong đó có một nhị trùng, rồi mới thành 1 vần tam trùng âm do phát âm nhanh
một lèo cả 3 âm rời rạc với nhau.
Điều tệ hại của việc dạy
ghép vần ngược là nó làm phân hóa đến tận gốc rễ cách phát âm của nhân dân, ai
cũng cho tiếng địa phương mình dùng là chuẩn. Dẫn tới quái tượng “giọng chuẩn
Hà Nội”, “giọng chuẩn Sài Gòn”. Thế thì thế nào là giọng chuẩn Huế, chuẩn Mỹ
Tho, chuẩn Quảng Nam...? Mới đây ở VN lại thấy có ý kiến nên lấy giọng Hà Nội
làm giọng chuẩn cho xướng ngôn viên đài truyền hình VN. Hãy nghe giọng Hà Nội
bây giờ: “Chủng em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào xơi chẻn giệu.”[3]
Nếu đây là giọng chuẩn thì mai kia cứ phải đúng từng chữ và từng dấu giọng này
mà viết tiếng Việt, đúng như cái câu trên, “Chủng em... giệu”! Sách “Việt Ngữ
Chính Tả Tự Vị” phải được làm lại từ đầu đến cuối. Mà rồi khi cứ cố tình bắt
lấy đây là giọng chuẩn thì cả nước có sẽ nói được cái giọng chuẩn này không nếu
như con nít cứ tiếp tục học cách đánh vần ngược.
Sự phân hóa này xảy ra do
người học bắt chước hoàn toàn đặc điểm phát âm của người dạy. Thầy người Nam
dạy phát âm “cau” giống “cao”, “anh” giống “ăn”; trong khi thầy người Bắc lại
đọc “rượu” như “diệu”, “cừu” thành “kìu”, “nướu” thành “niếu”... và vô số lỗi
phát âm nữa của từng vùng. Cần nhớ là khi ghép vần xuôi, mọi người đọc đều chỉ
cần tôn trọng có 12 âm nguyên cơ bản mà thôi. Trong chừng mực nào đó có thể nói
dù thầy đọc mẫu sai, trò vẫn có thể phát
đúng âm do trò đọc theo con chữ trên giấy chứ không nhái lại theo thầy. (Có em
học trò lớp 2 đã bắt lỗi cô giáo khi cô đọc chữ “mênh mông” là “mên môông”.)
Nếu tất cả học sinh đều học theo cách này thì trong tương lai sự khác biệt giữa
các “giọng chuẩn” sẽ ngày càng thu hẹp lại. Điều này đã xảy ra trong khuôn viên
các trường đại học Mỹ: dù sinh viên là người miền nào đi nữa thì khi phát ngôn
chính thức họ cũng phát âm đúng theo phiên âm trong tự điển. Có thể so sánh với
cách phát âm của các vị giáo sư trẻ Việt Nam, mỗi vị một vẻ, để thấy là dân ta
chưa chú trọng đến điều này.
Và những người chủ trương
ghép vần ngược (nhắc lại: ghép vần ngược là cách ghép phụ âm đầu với vần biết
sẵn) sẽ làm sao để đọc từ “hừm” khi từ này lần đầu tiên xuất hiện trong các
sách truyện, dịch âm chữ “hm” của tiếng Pháp? Hay khi cặp từ “màn/mùng tuyn”
xuất hiện trên thị trường để chỉ loại màn/mùng chống muỗi bằng sợi tổng hợp nhẹ
bền thời đó thì họ đọc từ “tuyn” thế nào? Làm sao họ đọc chữ “goào” gần đây
phiên âm từ chữ “wow”, một thán từ của Anh...? Các vần “ưm”, “uyn”, “oao”, vân
vân tuy đều có thể đọc được nhưng lại không có trong ngôn ngữ Việt thuần, tức
là không có trong bộ vần mẫu, thì làm sao học cách đọc được. Mặc dù vẫn có vần
“uynh” (khuynh đảo, khuỳnh khuỳnh hai cánh tay...)[4], và vẫn có
từ “quào” (phát xuất từ vần “oào”) ráp bởi “qu” và “ào”, mà tiếng Bắc là “cào”[5].
Một ví dụ nữa là từ “tuýp”
trong “đèn tuýp” mà người miền Nam hay gọi là “đèn típ”, hay tên nhà văn Mỹ đã
được phiên thành “Mác Tuên”; vần “uýp” và “uên” cũng không có mặc dù có chữ
“quên”, nhưng “quên” là do ráp “ên” vào với “quờ” chứ không phải “uên” vào với
“cờ”.
Nhìn vào đặc điểm này của
việc ghép vần ngược để thấy rằng phương pháp này làm hạn chế sự sáng tạo trong
cách viết chữ Việt, đóng khung tiếng Việt trong số vần đã có, làm tiếng Việt
ngày càng “giàu đẹp” theo hướng ngược lại.[6]
Nói cho cùng, trong thực tế
không ai ghép vần ngược, mà, khi tập đọc theo cách ghép vần ngược, từ “khoai”
chẳng hạn, ai cũng đọc theo thứ tự sau đây mà không để ý đó là mượn từ cách
ghép xuôi: “o, a, i, oai, khờ, oai, khoai.” Rõ ràng 3 bước đầu tiên là xuôi.
Rồi bước cuối cùng cũng là xuôi khi ghép 2 thành tố phụ âm và vần vào với nhau.
Đã xuôi lại còn ngược làm gì cho khổ người học khi bắt anh ta mỗi lần nhìn vào
một từ là phải nhìn phía sau trước. Vì: Khi ngưng ở “oai” để nhìn lại phụ âm “khờ”,
người học đôi khi quên tuốt là mình vừa ghép được vần gì trước đó để bây giờ
ghép với “khờ”. Nếu dạy lớp 1, ai cũng thấy điển hình này.
Cách ghép vần xuôi tuyệt đối
không làm người học mắc phải lúng túng này. Nó liên tục từ đầu đến khi xong từ.
Nó cũng cho phép phát âm được tất cả các vần có thể có khi dùng bộ chữ Việt. Và
một ưu điểm nữa là sau khi đã thành thạo phương pháp ghép vần xuôi, người học
có thể đọc phiên âm quốc tế để biết cách phát âm ngoại ngữ, không như ví dụ
“sậc-cáo-tờ” ở trên.
Lợi điểm của cách học vần xuôi khi áp dụng vào việc viết
Đọc thông chưa chắc sẽ viết
thạo. Thử tượng tượng khi bạn phải viết tiếng Anh mà không có tự điển bên cạnh.
Nếu coi chữ Việt như các thứ chữ bình thường khác, ta cũng sẽ rất ngại viết
tiếng Việt khi không có một cuốn tự điển tốt trong tầm tay. Bản thân người viết
đã từng đến dự một buổi lễ có tiêu đề to tướng dán trên sân khấu là “Hội Nghị
Tổng Kết Nghành Giáo Dục Huyện Bình Chánh” (sic). May quá, chữ kia không phải
“ngị”! Sai sót này cũng giống chuyện Phó Tổng Thống Dan Quayle của Hoa Kỳ khi
làm giám khảo một kỳ thi chính tả cho một trường tiểu học nào đó đã chấm đúng
cho một học sinh viết chữ khoai tây là “potatoe”.[7] Vấn đề ở
đây là cuộc thi của trường tiểu học đó là trò trẻ con và ông Quayle không phải
là một nhà giáo dục. Không thể vin vào giai thoại này để xuê xoa nói là đến phó
tổng thống còn sai nói chi dân thường.[8] Vấn đề
chính tả ở bất kỳ ngôn ngữ nào cũng đều khó khăn và đặc biệt trong việc viết
chữ Việt bây giờ, mặc dù lẽ ra nó đã không khó đến thế.
Một khi nắm vững cách ghép
vần, có thể nói việc viết một từ tiếng Việt là quá dễ, ít nhất là về mặt ngữ
âm, không xét đến các qui luật chính tả của các từ có gốc Hán. Điều này hẳn
nhiên là một điểm ưu việt tuyệt đối so với các thứ chữ khác trên thế giới. Cứ
việc theo sát cách đọc mà viết ra, xuôi theo thứ tự phát âm. Thí dụ khi phải
viết từ “hếu” trong “trắng hếu”, chứ không phải “hiếu” trong “trung hiếu”.
Trong từ trước, “trắng hếu”, khi nói lên không có âm hưởng của “i” nên trong từ
không có chữ “i”. Còn rõ ràng khi phát âm chậm từ sau, “trung hiếu”, ta nghe rõ
ràng có âm “i” trước âm “ê” rồi tận cùng bằng âm “u”. Kể cũng buồn cười, xét
vấn đề ngược lại, ngày nay chúng ta sẽ bảo viết “con tim” là sai vì tất cả các
ca sĩ đều hát là “con tiêm”, hay “chiều tím” sẽ phải viết lại thành “chiều
tiếm” nếu như chúng ta không nghiêm khắc nhận xét và phê bình các quái tượng
không biết học hết cấp một chưa mà đã trở thành thần tượng của bao nhiêu thiếu
niên mê ca nhạc.
Phụ Lục: Các vần tiếng Việt:
Theo cách sắp thứ tự của
Unicode, các dấu âm (dấu mũ, dấu trăng và râu) được kể là các dấu phụ nên bảng
vần được liệt kê theo thứ tự sau:
a, ac, âc, ăc, ach, ai, am, âm, ăm, an, ân, ăn, ang, âng, ăng, anh, ao, ap, âp, ăp, at, ât, ăt, au, âu, ay, ây,
e, ê, ec, êc, êch, em, êm, en, ên, eng, ênh, eo, ep, êp, et, êt, êu,
i, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iêt, iêu, im, in, inh, ip, it, iu,
o, ô, ơ, oa, oac, oăc, oach, oai, oăm, oan, oăn, oang, oăng, oanh, oao, oap, oat, oăt, oay, oc, ôc, ơc, oe, oen, oeo, oet, oi, ôi, ơi, om, ôm, ơm, on, ôn, ơn, ong, ông, oong, op, ôp, ơp, ot, ôt, ơt,
u, ư, ua, ưa, uân, uât, uây, uc, ưc, uê, uêch, uênh, ui, ưi, um, ưm, un, ưn, ung, ưng, uơ, uôc, ươc, uôi, ươi, uôm, ươm, uôn, uơn, ươn, uông, ương, ươp, uôt, uơt, ươt, ươu, up, ưp, ut, ưt, ưu, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uyêt, uyn, uynh, uyp, uyt, uyu,
y, yêm, yên, yêng, yêt, yêu. (6
vần này, thực tế là 6 tiếng và không dùng để ghép, chỉ thêm dấu thanh mà thôi,
trừ “y”.)
HỒNG ĐỨC
23/11/2007
[1] thanh bằng
gồm ngang và huyền; thanh trắc gồm các thanh khác.
[2]
Xem Phụ Lục. Tuy nhiên ở con trẻ, thuộc lòng 163 vần này không khó; những đứa
trẻ thông minh, kết hợp việc nghe đọc truyện và xem truyện có thể
thuộc lòng tất cả vần tiếng Việt trong khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Thậm chí có
bé (ở Sơn La) 5 tuổi chỉ xem hát Karaoke cũng thuộc và tự ghép vần để
đọc báo được.
[3] Không đưa thêm lỗi “nờ thấp nờ cao” vào câu diễu này
vì không nhiều người Hà Nội mắc lỗi này.
[4] nên có
người viết “màn tuynh”
[5] nhưng
“cào” chỉ đơn thuần tả hành động cố cắm sâu vào và kéo rách mà không diễn tả được
đường nét cong quẹo của hành động như “quào”.
[6] Mai kia sẽ
không có người dám sáng chế ra chữ mới như Nguyễn Ngọc Tư. Hãy nhớ tới sự sáng
tạo khi đọc chữ “ầng ậc” của cô: nó có gì đó giống “ừng ực” của hành động uống,
nó làm ta liên tưởng đến nước, nhiều nước, nhưng không phải đang “ùng ục” hay
“òng ọc” chảy mà chỉ chực tuôn ra “ồng ộc” vì đã đầy ứ, đầy ắp, nó cũng có gì
đó gần với sự tắc nghẹn của “ằng ặc” nhưng câm chứ không thành tiếng, nghẹn là
vì muốn tuôn ra mà ra không được. (“... đôi mắt ông đã ầng ậc nước...”)
[7] đúng ra là
“potato”.
[8] điều này
làm tôi nhớ là người ta bây giờ hay lấy tổng thống Mỹ ra để so sánh với những
kẻ lãnh đạo phát xít mới, quên rằng tổng thống Mỹ chỉ là một người làm công ăn
lương cho dân Mỹ mà thôi, mặc dù lương và chức vụ cao. Hết hạn là bị nghỉ việc.
3 comments:
Hi my family member! I want to say that this article is awesome, great written and include approximately all significant infos.
I would like to see more posts like this .
Nice post. I was checking constantly this blog and
I'm impressed! Very useful info particularly the last part :) I care for
such information much. I was seeking this particular information for a very long
time. Thank you and best of luck.
We absolutely love your blog and find nearly all of your post's to be
precisely what I'm looking for. can you offer guest writers to write content available for you?
I wouldn't mind composing a post or elaborating on many of the subjects you write in relation to here.
Again, awesome website!
Post a Comment