Sunday, August 9, 2009

Tiếng Việt, nguồn gốc và ảnh hưởng

Tình cờ đọc được vài bài viết liên quan đến tiếng Việt (không phải chữ Việt), mình được vài phút thư giãn và tâm đắc. Xin giới thiệu với các bạn đang cùng quan tâm đến cội nguồn và có lẽ cũng đang dùng nguồn cội của dân tộc để kêu gọi dân Việt trở về với con người thực của mình như đã được sinh ra và di truyền từ bao thế hệ.

Cũng nằm trong quá trình giúp giải quyết vấn nạn (hay có thể gọi là "công án" cho dân Việt) "ta là ai", kích thích người dân suy tư về nguồn gốc sự việc, chấm dứt cách nghĩ "nó là như thế, ai sinh ra nó không quan trọng, từ đầu nó như thế nào không quan trọng, tổ tiên ta chết rồi nên họ hồi đó có muốn gì cũng không quan trọng, điều quan trọng là ta cứ việc xài cho hết, hưởng cho tận những gì hiện hữu quanh ta."

Cái kiểu tư duy "duy vật mà không biện chứng" mà những người tự xưng là đệ tử của Marx và Angels áp dụng và lây nhiễm đang trở nên căn bệnh ích kỷ phổ biến trên toàn thế giới, đặc biệt phát triển ở những xứ sở mà người dân không có quyền đối với tương lai của mình và hậu duệ mình, đã làm cho tình hình xã hội ở những nơi đó càng thêm rối loạn.

Kêu gọi về nguồn không phải là kêu gọi hãy sống và nghĩ y hệt như tổ tiên đã từng sống và nghĩ, nhưng là kêu gọi hãy du lịch về quá khứ và không mang trên mắt một lăng kính, một cặp kính màu nào để thấy, để cảm thông và nhìn ra bổn phận hiện tại của mình, nhìn ra trách nhiệm của mình đối với bản thân và đối với những người quanh mình.

Những học giả người Việt có thể không nghĩ đến mục đích của cuộc về nguồn này, có thể hoàn toàn không biết đến tác dụng tích cực của cuộc về nguồn của họ khi họ cất công sưu lục, và suy tư để hình thành các luận điểm, các lý thuyết để nói về một sự việc nào đó hoàn toàn không dính dáng gì đến tư tưởng, đến triết học, và như vậy hoàn toàn không dính dáng gì đến chính trị (trong nghĩa rộng của từ này). Nhưng cái ảnh hưởng tích cực của nó vẫn có đó, và mình xin được hoan nghênh những đóng góp của những học giả này.

Và nhân dịp dân Việt đang bắt đầu ý thức để chống lại cuộc Hán hóa của người Tầu và những người Việt đang có dã tâm bán nước, bài viết này của tác giả
trong nước -- cũng như những tác phẩm ở hải ngoại của một học giả không học vị người miền Nam là cụ Bình Nguyên Lộc ("Lột Trần Việt Ngữ" và "
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam") -- sẽ là cái tát tai làm mở mắt những ai cả đời chỉ biết ca tụng người Tầu và hãnh diện vì người Việt là một chủng tộc của Tầu, hãnh diện vì người Việt ta "được" người Tầu bảo ban nhiều trong quá khứ (và hiện tại), lấy làm sung sướng vì được xử dụng các sản phẩm văn hóa và vật chất của Tầu. Chỉ vì xưa nay quá nhiều người Việt chỉ biết viết sử ký và vẽ bản đồ nước Việt dựa theo sách vở của Tầu.

Hồng Đức

Ghi chú:
- Trong bài viết của Hà Văn Thùy có nhắc đến chữ Khoa Đẩu của người Việt. Có thể biết thêm về điều này qua các tiểu tuyết dã sử của Trần Đại Sỹ xuất bản đã lâu.)
- Vấn đề văn phạm "chính trước phụ sau": chữ chính (danh từ) đi trước chữ phụ (tính từ). Tiếng Việt nhất quán trong luật này, kể cả trạng từ cũng đi sau động từ chính. Tiếng Tầu theo luật "phụ trước chính sau" giống Tây phương, nhưng hay có ngoại lệ.

LÂU ĐÀI TRÊN MÂY HAY DỰ CẢM SÁNG SUỐT?
(Bàn lại với ông Trần Trọng Dương)

 

Hà Văn Thùy

 

Tiếng Việt thời Hùng Vương – hay lâu đài cất từ hơi nước?”* là bài viết có ngôn từ sắc bén, biện luận xác đáng, chứng cứ vững chắc. Thêm nữa, tác giả của nó, ông Trần Trọng Dương luôn giữ thái độ tương kính với người đối thoại, thật đáng là mực thước của văn hóa tranh luận.

Nhìn từ góc độ khoa học, ta thấy, toàn bộ chứng cứ của tác giả đều dựa vào Từ Nguyên, Tứ khố toàn thư… là những thư tịch kinh điển Trung Hoa, vốn được coi là khuôn vàng thước ngọc, là chuẩn mực tối thượng khi so sánh với ngôn ngữ Việt. Giống như định đề trong toán học, người ta chỉ có thể chấp nhận mà không có quyền bàn cãi.

Đó là thói quen mang tính truyền thống có từ nghìn năm nay, đã chi phối mọi suy nghĩ của giới khoa bảng vốn nhiễm nặng chủ nghĩa Hoa tâm. Kinh nghiệm cho hay, càng những người thông thạo cổ văn thì căn bệnh này càng nặng. Nặng đến nỗi người ta chưa bao giờ dám bất kính thử đặt ra câu hỏi: ngôn ngữ Trung Hoa từ đâu ra? Nói cho cùng, dù thế nào đi nữa thì chỉ khi trả lời thỏa đáng câu hỏi trên, mới đủ cơ sở phân định vấn đề đang thảo luận.

Trong bài viết này, chúng tôi mạo muội bàn lại đôi điều.

 

I. Lịch sử phải viết lại

“Ngôn ngữ Trung Hoa từ đâu ra?” là câu hỏi lớn, đụng chạm tới gốc rễ nền văn hóa vào bậc nhất thế giới. Nhưng trước khi trả lời câu hỏi này, phải trả lời câu hỏi còn quan thiết hơn: người Trung Hoa từ đâu ra?

Cho tới cuối thế kỷ XX, vẫn tồn tại giả thuyết cho rằng, người Hoa Hạ, tổ tiên người Trung Hoa hiện đại, đã từ bắc sông Hoàng Hà vào Trung Nguyên lập nên đất nước Trung Quốc. Một thuyết khác cho rằng, tổ tiên người Trung Hoa đã từ cao nguyên Thiên Sơn di cư xuống tạo dựng nước Trung Hoa. Cả hai thuyết đều nhất quán ở một điểm: người Trung Hoa đã tự làm ra văn hóa cùa mình! Hệ quả của những thuyết này là chủ nghĩa Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của thế giới. Người Trung Hoa ban phát văn hóa, đặc biệt là ngôn ngữ cho các dân tộc Đông Á. Đó là kiến thức kinh điển cho tới nay của phần lớn giới khoa bảng Việt.

Tuy nhiên, sang thế kỷ này, với hàng loạt phát kiến di truyền học tìm ra tổ tiên cùng hành trình chiếm lĩnh Trái đất của loài người (1), bức tranh thời tiền sử châu Á đã được vẽ lại.

Khoảng 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới miền Trung và Bắc Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hòa huyết cho ra bốn chủng người Việt cổ: Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid. Sống trong môi trường thuận lợi, người Việt tăng nhân số, lan ra khắp Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, người Việt lên khai phá đất Trung Hoa.

Cũng trong thời gian trên, có những nhóm Mongoloid riêng lẻ, đi từ phía tây Đông Dương lên sống ở vùng Thiểm Tây, Cam Túc và bắc Hoàng Hà. Họ chuyển từ săn bắt, hái lượm sang du mục, trở thành tổ tiên của những bộ lạc Mông Cổ thuộc chủng Mongoloid phương Bắc.

Muộn nhất là 5000 năm TCN, ở vùng đệm bên sông Hoàng, đã có sự gặp gỡ hòa huyết giữa người Bách Việt và người Mongoloid phương Bắc, cho ra đời những lớp con lai thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Đấy là chủng thứ 5 trong cộng đồng Bách Việt, do người Lạc Việt (Indonesien) dẫn dắt.

Khoảng 2600 năm TCN, một số bộ tộc Mông Cổ du mục do họ Hiên Viên dẫn đầu, vượt sông Hoàng Hà, chiếm giang sơn của Bách Việt. Một bộ phận ưu tú người Việt lên thuyền, theo Hoàng Hà vượt biển trở lại Việt Nam, dựng nước Văn Lang. Đại bộ phận dân Bách Việt ở lại chung sống với quân xâm lăng. Kẻ thắng trận là những bộ lạc thiểu số với số dân ít, đời sống khó khăn, bắt gặp vùng đất mênh mông, kinh tế trù phú và số dân đông đúc nên không thể và không cần thực hiện chính sách diệt chủng hay nô lệ hoá kẻ thua trận. Người chủ mới đã thực thi chính sách chung sống khôn khéo: đảm bảo quyền lợi cao nhất cho mình đồng thời không bần cùng hóa kẻ bị trị tới mức phải nổi lên chống lại. Trên đại thể, người Mông Cổ bỏ phương thức du mục, chuyển sang làm quan cai trị, làm công nghiệp, thương nghiệp - những ngành nghề hợp với sở trường và sinh lãi cao. Họ để cho người Bách Việt làm nông nghiệp, tạp dịch và đi lính. Chính vì vậy, cùng với người Mông Cổ, người Bách Việt được an cư lạc nghiệp, đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng xã hội mới cả về kinh tế lẫn văn hoá. Nhờ thế, chỉ trong vòng 300 năm, từ Hoàng Đế qua Đế Cốc, Đế Chí, sang Đế Nghiêu (2356 TCN) đã là thời Hoàng Kim của xã hội Trung Hoa cổ. (2)

Quy luật phổ quát của nhân loại là những bộ lạc du mục thường mạnh về vũ trang nhưng văn hóa kém phát triển. Trong khi đó dân nông nghiệp có nền văn hóa cao nhưng lại kém trong chiến trận. Là tộc người giữ vị trí lãnh đạo cộng đồng Bách Việt,  người Lạc Việt có ngôn ngữ phát triển. Trong khi đó, ngôn ngữ Hán Tạng (Sino -Tibétan) chỉ tồn tại trong những bộ lạc thiểu số sống ở vùng Thiểm Tây, Cam Túc. Sự vượt trội thể hiện ở chỗ số lượng từ vựng của người Lạc Việt  nhiều, có khả năng biểu cảm cao đồng thời có nhiều từ thể hiện những khái niệm trừu tượng, đủ sức làm nên kinh Thi, kinh Dịch... 

Khi sống trong cộng đồng cư dân mới, người gốc Bách Việt – mà kẻ xâm lăng gọi là lê dân, tức dân có nước da đen – vẫn dùng tiếng nói và cách nói của mình. Cùng với thời gian, họ học thêm những từ mới của người láng giềng Mông tộc. Cũng như vậy, người Mông bổ sung từ ngữ của lê dân vào tiếng nói của mình. Dần dần toàn bộ từ vựng trở thành của chung. Điều này cũng giống như ngôn ngữ Việt hiện đại: sau năm 1975 trong giao tiếp cũng như viết lách, có việc dùng trộn trạo tiếng Nam lẫn tiếng Bắc.

Từ vựng hòa đồng khá dễ dàng nhưng người gốc Mông và gốc Việt vẫn giữ cách nói tức ngữ pháp riêng của mình. Ngữ pháp là yếu tố khá bền vững của ngôn ngữ và là tiêu chí quan trọng phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Tiếng Việt tuân theo luật “Chính trước phụ sau” với nội dung: “Trong một câu đơn, các từ ngữ nối tiếp nhau theo một trật tự như thế nào mà mỗi từ đi sau làm rõ ý nghĩa của từ đi trước hay của một trong những từ đi trước». Trong khi đó tiếng Hán Mông tuân thủ quy luật ngược lại “phụ trước chính sau”. Do sống dưới sự thống trị của người Mông nên người Việt phải tuân theo cách nói của kẻ cầm quyền. Quá trình này là lâu dài và được chi phối bởi quy luật: các vùng đất trong một quốc gia thường học theo cách nói của trung tâm, của kinh đô. Người Mông thống trị tập trung ở các đô thị, ra mệnh lệnh, giấy tờ theo cách nói, cách viết của mình. Lê dân, dù ngày thường nói và viết theo thói quen của người Việt nhưng khi lên thủ đô, khi viết những văn bản hành chính, buộc phải theo cách nói, cách viết của chính quyền. Rồi trường học được mở, học trò phải nói và viết theo “chuẩn”. Cứ như vậy dần dần cách nói, cách viết của người Mông trở thành thống lĩnh. Ban đầu tiếng nói được ký tự bằng chữ Khoa đẩu của người Việt. Khi chế ra chữ vuông, tất cả từ vựng chuyển sang viết bằng chữ vuông: tiếng Việt biến thành tiếng Hán.(3)

Như vậy, ta có thể nói chắc rằng: Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa. Chỉ khi người Trung Hoa không còn là chủng Mongoloid phương Nam, không phải là “Viêm Hoàng tử tôn” thì chuyện đó mới không xảy ra!

 

II. Tìm dấu vết Việt trong thư tịch Trung Hoa

 Cái yếu nhất trong các nghiên cứu tiếng Việt cổ của tiến sĩ Lê Mạnh Thát và nhiều người khác là chưa có “xuất thổ văn hiến”, tức là chưa tìm được chữ của tổ tiên được khắc trên đá, trên xương thú, đồ gốm hay đồ đồng để trưng ra trước bàn dân thiên hạ. Nhưng bằng dự cảm, không ít người từ lâu đã nhận ra dấu vết tiếng Việt tồn tại trong ngôn ngữ Trung Hoa.

(còn nữa)

(xin đọc tiếp trong attachments)

5 comments:

Kibu Kubi said...

Sao phần II lại ngắn thế. Bạn tiếp tục đi...
Khi nào đầy đủ, còm cho mình xem với nhé. Cám ơn!

Hồng Đức said...

@Kichbu:
Cả bài nằm trong attachment.

Kibu Kubi said...

Hông đọc hết được tất cả. Hóa ra nó ở link này
http://www.viet-studies.info/TranTrongDuong_v_LeManhThat.htm
Cám ơn bạn đã trả lời..:)

Fra BIỂN ĐỎ . said...

Oh, Đỏ ta có lắm chuyện quá không nhỉ?
Tìm trong attachments ở đâu ra? Đọc cái tựa thấy hay quá, mà nội dung thì chưa thấy gì! Để xem sao.

Hồng Đức said...

attachment ngay bên dưới dòng "(xin đọc tiếp trong attachments)"
Nếu không thấy xin báo lại cho mình. Đa tạ.