Về tay trái (tay bấm dây) trên đàn guitar
Về tay trái (tay bấm dây) trên đàn guitar
Để đạt được phẩm chất
cao về tiếng (rõ, ngân, không rè) khi bấm dây, cũng như tốc độ thay ngón, tốc
độ chuyển vị trí tay, thì người học đàn guitar cổ điển cần chú ý khá nhiều vấn
đề. Khi luyện sai một kỹ thuật nào đó thì nó sẽ thành nếp và ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển kỹ năng, hoặc gây cản trở không tiến bộ. Thế nên ta cần biết và
luyện cho đúng cách.
Nguyên tắc chung là làm
sao để ngón tay uyển chuyển, chính xác, nhanh nhẹn. Và bàn tay, cổ tay, cánh
tay và vai lưng được thả lỏng, không gồng cứng, để có thể xoay chuyển tùy
trường hợp.
Nhiều bậc thầy nhấn mạnh
vào vị thế của vai (phải hạ thấp vai), của cánh tay trước (phải đưa ra phía
trước), của cùi chỏ (chĩa xuống đất), của cổ tay (phải đưa ra ngoài mặt phím)...
vân vân. Hay bàn tay cùng các ngón tay phải có dạng cong nhẹ hình chữ C, không
gẫy gập co quắp. Tuy nhiên tất cả những điều đó đều được thỏa, đều được đáp ứng
đúng đắn nếu như ta có phương pháp tiếp cận kỹ thuật một cách đúng đắn. Đó là
luôn đặt câu hỏi, "Như thế nào là phù hợp nhất đối với cấu trúc
tay của ta để tạo ra âm thanh rõ ràng và khi cần nhanh thì làm như vậy có nhanh
được không?"
Phân tích về các yêu cầu kỹ thuật:
Dù cho ôm đàn theo kiểu nào, trên đùi phải hay
trên đùi trái, có dùng miếng đệm hay giá đỡ hay không, cần đàn nghiêng nhiều
hay ít, mặt đàn ngửa nhiều hay không, thì cánh tay, bàn tay và ngón tay cần
thỏa những điều kiện nhất định hầu cho việc tập và chơi đàn không bị cản trở.
Do vậy, cách ôm đàn không được bàn chi tiến trong chương này. Vì khi không đạt
được yêu cầu của bàn tay, cần thay đổi hay điều chỉnh cách ôm đàn.
- Ngón Cái: Dùng phần thịt mặt trước của lóng ngoài cùng (tip joint) của ngón cái để làm điểm tựa
cho các ngón khác bóp, mà đè dây xuống phím. Vì vậy ngón cái không cố định ở
một độ cao ở phía sau cần đàn, mà khi cao khi thấp tùy theo đang bấm ở dây nào,
nhưng không bao giờ nên để ngón cái lên cao quá nửa bề cao của cần đàn. Khi
ngón cái di chuyển lên cao quá, bàn tay sẽ giống như ôm nắm lấy cần đàn và như
thế cản trở sự linh hoạt và tầm vươn của các ngón bấm. Dọc theo chiều dài cần,
vị trí tốt nhất của ngón cái là đối diện với với ngón giữa.
Segovia phản đối việc dùng khớp xương giữa 2 lóng
của ngón cái để làm điểm tựa và việc vịn, móc ngón cái lên cần đàn để cho vai
và cánh tay nghỉ ngơi. Ngón cái càng thấp, càng giúp bàn tay có thể đưa
nhiều ra phía trước hầu cho các ngón có được vị trí bấm từ trên cao xuống dây
đàn.
Tuy nhiên cũng cần tập
để khi rung tiếng (vibrato) ta có thể
buông lỏng ngón cái và lắc cổ tay. Khi này, ngón cái gần như không đè vào cần.
Thử bấm dây và khẩy mà không chạm ngón cái vào cần và lắc tay lấy cổ tay hay
cùi chỏ làm trục. Thực ra, khi đặt cây đàn trên đùi một cách cân đối và đã có
cánh tay phải đè thân đàn xuống, thì không cần tay trái phải nâng đỡ nó, nên
khi buông tay, cây đàn vẫn ổn định.
Carruli có khi dùng ngón
cái để thò lên mà bấm vào dây số 6, có khi dây số 5. Điều này nên tránh tuyệt
đối. Nhưng các cầm thủ guitar điện
vẫn áp dụng vì cần đàn của họ quá nhỏ và kỹ thuật ngón trên loại đàn này rất
khác.
- Các ngón bấm: Bấm bằng chính giữa
đầu 4 ngón tay có móng cắt sát tối đa (tức là cắt hết phần trắng của móng),
trừ khi phải dùng kỹ thuật chặn dây (barré,
đè nhiều dây một lúc bằng một ngón). Bấm càng vuông góc với mặt phím càng tốt, mục đích là tránh để ngón chạm vào
các dây bên cạnh. Thói quen bấm vuông góc sẽ giúp ích rất nhiều khi coulé (chảy tiếng, luyến âm, slur).
Bấm càng
sát với phím càng tốt, để giảm thiểu
sự trượt dây trên phím làm mất độ trong trẻo của tiếng đàn. Và bấm càng nhẹ càng tốt để tiết kiệm năng lượng và
ngón linh hoạt hơn vì không bị gồng cứng. Khi bấm xa phím nhưng muốn tránh rè
thì phải bấm mạnh hơn nhiều. Bấm trên cùng một dây tại các vị trí khác nhau của
một ngăn đàn sẽ thấy rõ điều này. Trừ khi chặn dây, các ngón đều phải có dạng
cong, gập theo một chiều khi bấm.
Ngón út là ngón yếu nhất và ngắn
nên cần luyện cho nó trở nên linh hoạt và mạnh. Nó cũng là tiêu điểm để nhận
biết tư thế đúng sai của bàn tay. Khi nó phải vươn liên tục, hay khi bấm bị sụp
ngón[1], thì cần coi
lại tư thế của bàn tay.
Ngón giữa và ngón đeo nhẫn thường khó tách rời nhau do chúng có cùng một cơ điều
khiển ở khuỷu tay. Chúng thường kéo nhau hoặc cản trở nhau. Cần chú ý luyện để
có thể điều khiển chúng cách biệt lập.
Ngón trỏ hay được dùng để chặn dây
(barré). Khi chặn, phải tuyệt đối tránh để 2 lóng ngoài gập, dù chỉ chặn 2 dây
cao. Nhưng nếu để bàn tay đúng cách, việc đó không thể xảy ra.
Ngoài ngón trỏ, ngón út cũng có khi dùng để chặn.
Nhưng vì yếu và ngắn, không thể dùng ngón út để chặn quá 3 dây đàn.
- Bàn tay: Để giảm đến tối thiểu khoảng cách từ đầu ngón đến điểm sắp
bấm trên dây, giúp thêm độ nhanh và độ chính xác, tư thế lý tưởng của bàn tay
là tư thế giúp chớm nhẹ được cả 4 đầu ngón trên một dây ở 4 phím kế nhau mà cả
4 ngón đều cong đều, không ngón nào bị duỗi quá hay gập quá. Lúc đó các khớp ở gốc ngón
tay tạo thành đường song song với
dây đàn và xa khỏi mặt phím (để có thể bấm từ trên cao xuống), và như thế không
điểm nào của lòng bàn tay hay của gốc ngón tay bị sát hay chạm vào cần đàn.
Để có tư thế lý tưởng cho bàn tay như vậy, cần chú ý
đến tư thế của lưng, vai, của cánh tay, cùi chỏ và cổ tay sao cho thoải mái và
tự nhiên (không bị căng cứng, gượng ép, hay cố gắng). Và tất nhiên cần đàn sẽ
phải xiên, từ 45o đến 75o so với mặt đất.
Liên tục tập một số hài thanh đặc biệt (chords or arpeggios) trong khi cố không để ngón nào bị sụp; và luyện chạy thang âm đồng chuyển (chromatic scales, gammes chromatiques) trên từng dây (chạy hết 12
ngăn đàn trên mỗi dây) có thể giúp hình thành thói quen cho tư thế của bàn tay,
nó cũng giúp cả việc xác định vị trí ngón cái sau cần đàn. Khi tập bài mới, nếu
có thế bấm nào quá khó, cần xem lại tư thế của bàn tay, cổ tay, ngón cái, cánh
tay và vai và cách ôm đàn. Vì với một sự kết hợp tư thế của các thành phần đó,
sẽ có thể bấm được các thế bấm khó đó.
Một số người có mu bàn tay quá khum, các khớp gốc
ngón tay tạo thành đường cong quá nhỏ. Bàn tay như thế chỉ bấm được các thế bấm
đơn giản và hẹp (không vươn ngón được). Chỉ có thể khắc phục bằng cách luyện
tập nhiều hơn với thế bấm khó và chạy thang âm đồng chuyển trong khi thả lỏng
gân cốt ngón tay, tránh tuyệt đối việc gồng ngón.
Liên quan đến khả năng bấm dây thì có vài tiêu chuẩn
làm đàn như sau: - chiều dài dây là 650 mm; - chiều rộng mặt phím ở phím zero
là 51 mm; - khoảng cách giữa dây 1 và dây 6 trên miếng xương là 43 mm. – Tĩnh
không (action) tại phím XII của dây 1
là 2.5 mm, của dây 6 là 3.5 mm[2]. Tiêu chuẩn đó
là phù hợp cho người có chiều cao trên 160 cm. Dưới chiều cao đó, có thể cần có
cây đàn với kích thước nhỏ hơn.
- Cánh tay:
đôi khi hạ thấp vai thì việc vươn
cánh tay ra phía trước giúp cho tư thế bấm thuận lợi hơn. Cánh tay trước di chuyển theo vị trí của bàn tay để luôn giữ được
cho các ngón tay vuông góc với dây. Cổ
tay lỏng để có thể uyển chuyển thay đổi góc bấm của các ngón. Khi bàn tay
cần di chuyển cực nhanh thì dùng cùi chỏ
làm trục, lắc cánh tay trước chứ không di chuyển cả cánh tay (cả cánh tay trên,
cùi chỏ và cánh tay trước), nhưng trước đó phải đưa cùi chỏ về hướng sắp chuyển
đến để khi bàn tay đến vị trí mới thì không bị xiên. Nhiều sách tự học đưa ra
những nguyên tắc cứng ngắc về tư thế của cánh tay (cánh tay trước, cùi chỏ, bắp
tay, vai) và người học cố bám sát chúng, dễ thành thói quen gồng cứng các khớp,
là điều cần tránh.
Cơ thể mỗi người mỗi khác, xương dài ngắn khác nhau,
nên chỉ cần nhớ nguyên tắc chính là thả lỏng, giữ cho mọi hoạt động tự nhiên theo
cơ thể mình, sao cho bàn tay luôn ở tư thế lý tưởng nêu trong phần nói về bàn
tay ở trên. Tuy nhiên, nếu chỉ liên tục chơi ở vị trí đầu đàn mà không để ý uốn
nắn, thì các thói quen xấu có thể hình thành cho cả bàn tay lẫn cánh tay. Như
vậy, chạy gam đồng chuyển lên đến ngăn XII là việc luyện tay bắt buộc ở trình
độ vỡ lòng, song song với các bài tập
hài thanh rải.
Giúp định hình
tư thế bàn tay:
Bằng thang âm
đồng chuyển.
Thang âm đồng chuyển là các âm hiệu liền nhau, khi
đi lên thì cao hơn nhau từng nửa cung (một ngăn đàn), khi đi xuống thì chúng
thấp dần từng nửa cung. Vì liên tục và kề sát nhau, ngón bấm cho chúng ở đầu
đàn sẽ liên tục là 0 (dây buông), 1 (ngón trỏ), 2 (ngón giữa), 3 (ngón áp út),
4 (ngón út), riêng dây số 3 không bấm ngón 4.
Cố giữ cho các đầu ngón khi chưa bấm thì luôn luôn
hờm sẵn ở gần vị trí sắp bấm. Tư thế bàn tay sai thì không bao giờ hờm ngón
được như vậy. Khi đã bấm thì giữ nguyên ngón bấm cho đến khi đổi dây, để luôn
giữ bàn tay ở tư thế đúng nhất.
Chỉ chơi ở đầu đàn. Chạy lên từ âm thấp nhất, là dây
6 không bấm, đến ngăn thứ 4 của dây 1 (bấm bằng ngón 4) thì chạy xuống. Khi đi
lên phải chú ý hờm ngón vào dây. Khi đi xuống, chú ý để không nhấc ngón lên cao
quá, chỉ vừa tránh chạm dây là đủ. Nhất là khi nhấc ngón 3 thì cần chú ý để giữ
ngón 4 không lên cao thêm. Để ý rằng ngón cái phía sau cần cũng sẽ di chuyển
lên xuống theo chiều cao của cần, tương hợp với dây đang bấm.
Bằng các thế
bấm đủ 4 ngón.
Thử các thế bấm gồm đủ 4 ngón đề nghị dưới đây theo
đúng số ngón tay chỉ định và sát phím hết khả năng của ngón (ngón 2 và 3 thường
rất khó rời nhau). Khẩy từng âm hiệu theo cách tỉa hợp âm (arpeggio) để kiểm soát độ chặt của ngón. Phải bảo đảm sao cho tất
cả các âm hiệu của hài thanh đều ngân vang hòa với nhau. Khi bấm, thử điều
chỉnh ngón cái lên xuống xa gần thẳng xiên sau cần đàn, xoay cổ tay, đưa cánh
tay tới lui xiên xẹo, vai nâng lên hạ xuống, vân vân, sao cho bấm được thoải
mái và nhận định tư thế cho bàn tay của mình. (Các hài thanh này không liên
quan đến nhau nên không nhất thiết phải chơi liền với nhau.) Tập các thế bấm
này giúp ta hiểu tầm quan trọng của việc phải để cho toàn bộ các phần của cánh
tay trái thật uyển chuyển mềm mại.
[1] Ngón bị sụp là khi khớp giữa 2 lóng trong bị ép lõm
vào, không còn tư thế cong theo chiều tự nhiên của ngón tay.
[2] Tĩnh không càng cao thì tiếng đàn càng rõ ràng gọn
ghẽ. Nên các nhà làm đàn thường giữ nó cao đến mức có khi gây khó khăn khi bấm
dây. Nếu cần, có thể mài thấp 2 miếng xương chống dây, một ở đầu đàn (nut) và
một ở trên ngựa đàn.
0 Comments:
Post a Comment
Subscribe to Post Comments [Atom]
<< Home