Monday, October 7, 2024

Nhịp Phách theo cách nhìn phổ thông

Để ghi trường độ âm thanh, người ta lấy tiêu chuẩn là Dấu Trọn (Nốt Tròn, Whole Note), Âm thanh dài bằng nửa dấu trọn là Dấu Phần Hai (Nốt Trắng, Half Note). Âm thanh bằng nửa Dấu Phần Hai là Dấu Phần Tư (Nốt Đen, Quarter Note). Cứ thế mà có Dấu Phần Tám (Nốt Móc, Eighth Note), Phần Mười Sáu (Nốt Móc Đôi, Sixteenth Note), Phần Ba Mươi Hai (Móc Ba, Thirty-Second Note), Phần Sáu Mươi Tư (Móc Bốn, Sixty-Fourth Note)… Tức là các hình nốt được chia theo hệ nhị phân, (cơ số 2: cái này bằng 2 cái kia: 1, 2, 4, 8, 16, 32, 64…).

Người ta không chia trường độ theo hệ tam phân. Tuy nhiên, với cách ghi bằng Dấu Chấm Dôi (Dotted Notes), ta có thể ghi được một dấu nhạc có 3 phần bằng nhau (tam phân). Với định nghĩa rằng: “Dấu chấm dôi làm tăng trường độ của dấu nhạc thêm một nửa”. Tức là, dấu nhạc có chấm dôi thì dài bằng 3 lần nửa của nó.

Và như vậy có vẻ như có một hệ tam phân trong ký âm pháp. Thực ra việc chia ba chỉ xuất hiện trong việc tính phách và trong các trường hợp đặc biệt chứ không có một hệ thống ký âm theo hệ tam phân (hay theo cơ số 3, tức là cứ nốt này thì bằng 3 nốt kia).

Phách tam phân là phách mang hình nốt có chấm dôi, là phách có 3 phần bằng nhau. Là phách chia ba.

Còn Phách nhị phân thì không có chấm dôi, là phách có 2 phần bằng nhau. Phách nhị phân là phách chia đôi.

Và người ta gọi tất cả các loại nhịp có phách nhị phân là Nhịp Đơn và các loại nhịp có phách tam phân là Nhịp Kép.

Nhịp đơn: 2/2, 2/4, 2/8, 3/2, 3/4, 3/8, 4/2, 4/4, 4/8…

Nhịp kép: 6/2, 6/4, 6/8, 6/16, 9/4, 9/8, 9/16, 12/4, 12/8, 12/16…

Suy ra, trong số đề nhịp dạng phân số, nếu tử số chia chẵn cho 3 thì nhịp đó là nhịp kép. Và số phách trong nhịp sẽ là tử số chia 3; Thí dụ nhịp 6/8 có 2 phách (vì 6 : 3 = 2). Và giá trị của phách là mẫu số nhân 3; Thí dụ nhịp 6/8 có giá trị phách là 3 dấu Phần Tám (3 nốt móc, tức nốt đen có chấm, tức dấu Phần Tư Có Chấm).

Để tránh tính toán rắc rối, có người bảo nhịp kép vẫn có số phách bằng tử số (nhịp 6/8 có 6 phách) và các phách đó được nhóm từng 3 phách với nhau. (Nhịp 9/8 có 3 nhóm phách). Và giá trị phách vẫn là phần phân số trong số ghi nhịp (Nhịp 12/8 chính là 12x1/8, tức dấu Phần Tám, tức nốt Móc Đơn).

  

Nhịp Phức (Complex Meter) là nhịp ghép bởi các loại nhịp khác nhau. Như 5/8, 7/4…

Cách ghi nhịp của linh mục Antôn Tiến Dũng

Cách ghi nhịp kép dựa trên tên dấu nhạc theo kiểu Anh Mỹ (Half, Quarter, Eighth) thì không dễ hiểu đối với người dùng ký âm pháp kiểu Latin (Trắng, Đen, Móc…) nên nhạc sư Tiến Dũng dùng chính hình nốt (dấu nhạc) để ghi giá trị phách. Bên trên dấu nhạc đó ghi số phách có trong ô nhịp. Dưới đây là một số ví dụ căn bản. Bên cạnh cách ghi mới là cách ghi cũ để so sánh.



Wednesday, October 2, 2024

Một khái niệm Khác về Nhịp và Phách.

Tiếng Việt trong âm nhạc xưa nay gọi một Nhịp (measure) là một chu kỳ thời gian bắt đầu bằng âm mạnh và kết thúc ngay trước âm mạnh kế tiếp trong chuỗi các âm thanh cách đều nhưng mạnh nhẹ khác nhau của âm nhạc. Một nhịp có thể có nhiều Phách (beat), tức là các phần chia đều của nhịp.

Có hai loại nhịp cơ bản, gọi là Nhịp Đơn (Simple Meter), là Nhịp Hai PháchNhịp Ba Phách. Số phách có trong một nhịp được biểu thị ở phần tử số của số đề nhịp có dạng một phân số.

Khi ghi nhạc, tác giả có thể chọn đơn vị cho phách là bất kỳ hình nốt nào, từ dấu Phần Hai (nốt trắng, Half) đến dấu Phần Mười Sáu (nốt móc đôi, Sixteenth), và biểu thị nó ở số đề nhịp. (Đôi khi ta gặp phách là dấu Trọn (nốt tròn, Whole), ở nhạc thời cổ.)

Vậy ta có các loại nhịp đơn như 2/2 (là 2 dấu 1/2), 3/2 (3 dấu 1/2), 2/4 (2 dấu 1/4), 3/4, 2/8, 3/8, 2/16, 3/16. Có khi thấy 2/1, 3/1. (Phần tử số luôn luôn là 2 hoặc 3).

Khi ghép các nhịp đơn giống nhau thành một nhịp ta có Nhịp Kép (Compound Meter).

Ghép 2 nhịp 2 phách thành nhịp có 4 phách: 4/2, 4/4, 4/8...

Ghép 2 nhịp 3 phách thành nhịp có 6 phách: 6/2, 6/4, 6/8, 6/16.

Ghép 3 nhịp 3 phách thành nhịp có 9 phách: 9/4, 9/8, 9/16.

Ghép 2 nhịp 6 phách thành nhịp có 12 phách: 12/4, 12/8, 12/16.

Một cách để hiểu số đề nhịp: Số đề nhịp luôn mang dạng một phân số với tử số là số phách có trong nhịp. Ta hiểu đó là một Tích giữa một số nguyên và một phân số có phần nguyên biểu thị số phách có trong nhịp và phần phân số biểu thị giá trị của một phách. Chính vì gọi tên hình nốt theo kiểu phân số (dấu phần tư, dấu phần tám...) mà ta có cách ghi nhịp kiểu phân số.


Người ta không ghép 3 hay 4 nhịp 2 phách với nhau vì,

Khi ghép 3 nhịp 2 phách (như 2/8 + 2/8 + 2/8) thì đó chỉ là nhịp đơn 3 phách, mỗi phách là dấu Phần Tư, và đó là nhịp 3/4 chứ không phải 6/8 (là ghép 2 nhịp 3/8). Tương tự khi ghép 4 nhịp 2 phách thì tạo ra nhịp 4 phách (4 x 2/8 = 4/4).


Dĩ nhiên trong nhịp đơn thì phách đầu tiên là phách mạnh, (các) phách còn lại là yếu. Trong nhịp kép, (gồm các nhịp đơn ghép lại) thì phách đầu của mỗi phần ghép sẽ là mạnh, nhưng phách đầu tiên của nhịp đã ghép là mạnh nhất.

Khi ghép các nhịp khác loại vào thành một nhịp, ta có nhịp phức (complex meter). Và ta có các nhịp phức 5 phách (ghép 2 + 3 hoặc 3 + 2), 7 phách (2 + 2 + 3 hoặc 2 + 3 + 2 hoặc 3 + 2 + 2), vân vân... Độ mạnh của các phách trong nhịp phức cũng theo luật ghép nhịp đã nói ở trên.

Người ta có thể ghép thành nhịp phức từ bất kỳ loại nhịp nào. Có thể ghép 5/8 với 4/8 thành 9/8, tuy nhiên khi đó phải phân nhóm cho sự ghép đó bằng các cách chép nhạc cần thiết, hoặc sử dụng vạch nhịp đứt quãng.

Cách giải thích về nhịp này tránh được khái niệm Phách Nhị Phân (Binary Beats) và Phách Tam Phân (Ternary Beats) rất rắc rối đối với người mới học nhạc. Tuy nhiên cho đến nay, thế giới vẫn theo truyền thống phân loại nhịp theo kiểu nhị phân – tam phân. Bất kỳ trang web dạy nhạc nào cũng giải thích theo cách cũ này.







Friday, July 12, 2024

Guitar TAB

 Guitar TAB

Dưới đây (hình 1a) là một bảng ghi cách chơi đàn dây có phím (đàn lute)  thời thế kỷ 17. Bảng này hướng dẫn phải bấm vào dây nào, phím nào và theo tiết tấu nào. Tức là ghi được 3 yếu tố.

5 đường kẻ ngang là 5 sợi dây đàn. Các vạch thẳng đứng là vạch nhịp. Số 3 ở đầu là số đề nhịp. (Bài này ở nhịp 3. Không rõ là 3/4 hay 3/8 hay 3/2.)

Các con số 1, 2, 3... là ngăn đàn sẽ được bấm để khẩy. Số không (0) là dây buông.

Các hình nốt ở phía trên là trường độ của âm thanh. Các đường cong là dấu luyến.

Biết trước cao độ của từng dây đàn (đường kẻ ngang) thì ta có thể chuyển bảng này thành bản ký âm hiện đại với Khuông 5 dòng kẻ, có Khóa. Và bản ký âm đó sẽ chỉ có nốt nhạc, được phân thành từng ô nhịp.

Khi dùng TAB, người chơi hoàn toàn tự do muốn dùng ngón tay phải nào để khẩy cũng được, dùng ngón tay trái nào để bấm cũng được. (Thực ra không phải là tự do, mà là không biết bấm và khẩy bằng ngón nào, như sẽ trình bày sau.)

Hình 1a: TAB của bài Passacalle của Gaspar Sanz in năm 1674

Thời xưa, TAB kiểu Pháp (hình 1b) còn khó hiểu hơn nữa. Thứ tự các ngăn đàn được ghi bằng chữ La Tinh (b là ngăn 1, c là ngăn 2..., a là dây buông).

Hình 1b: TAB của bản Prelude của Johann Sebastian Bach.

Và vì TAB không ghi được các ngón bấm và ngón khẩy, người chơi đàn phải tự “soạn” trước cho mình cách chơi bản nhạc đó. Vấn đề là không biết ghi chú vào đâu và ghi thế nào. Đây chính là nhược điểm của việc sử dụng TAB. Mặc dù ngày nay, người ta chế ra nhiều kiểu viết TAB rõ ràng và kỹ hơn.

Để chơi đàn dây có phím, việc dùng ngón nào để bấm và ngón nào để khẩy là cực kỳ quan trọng. Bấm đúng thì bàn tay trái di chuyển hợp lý và phân câu rõ ràng. Khẩy đúng ngón thì mới có thể khẩy nhanh và tạo được âm thanh phù hợp (trong/đục, cứng/mềm khác nhau). Vì thế, các bản nhạc soạn cho đàn dây khẩy ngày nay, đặc biệt là guitar, đều có ghi chú về ngón tay. Dùng chữ p, a, m, i cho tay phải; Dùng số 1, 2, 3, 4 cho tay trái.

Hình 2 là cách ký âm tiêu chuẩn cho đàn guitar. Chữ (màu đỏ) ghi ngón khẩy. Số (màu xanh) ghi ngón bấm.

Hình 2: 4 ô nhịp đầu của bài Romance de Amor

Với cách ghi này, người chơi phải biết rõ các nốt trên khuông nhạc và cách tạo ra các nốt đó trên dây đàn (dây nào, phím nào). Mà đây lại là việc rất nhiều người cho là khó khăn nhất trong việc học đàn. Họ thấy nó phức tạp vì phải học thuộc tên của các nốt trên khuông nhạc, phải thuộc các nốt đó trên từng sợi dây đàn. Lại thêm các hình nốt đen trắng râu ria càng làm tăng độ phức tạp. Phức tạp vì phải tính nhịp phách để tạo nên tiết tấu.

Thực ra, nhạc thì phải có tiết tấu. Nên việc học để diễn tiết tấu là điều tiên quyết. Vấn đề là học cách nào để đi từ dễ đến khó. Chứ không phải vì khó mà bỏ qua và trở thành mù nhạc. Trong hình 2, tất cả các nốt nhạc theo nhau đều là nốt Phần Tám (nốt móc đơn) nên chúng sẽ được khẩy đều đặn nối tiếp nhau. Và đó là bước cơ bản và vỡ lòng để học tiết tấu.

Hãy xem bản TAB của 4 ô nhịp của bài Romance đó trong hình 3. 6 đường kẻ ngang là 6 sợi dây đàn. Người chơi phải biết trước tên của 6 dây này, để nhìn vào sẽ hiểu rằng dây số 1 ở trên cùng và dây số 6 ở đáy. (Cách ghi TAB của Ý Đại Lợi thời xưa thì theo thứ tự ngược lại, dây 1 ở đáy và dây 6 trên cùng. TAB của bài Passacalle trong hình 1 được ghi theo lối này và chỉ ghi cho 5 dây đàn.)

Các chữ cái E, A, D... là tên của dây.

Các con số là số của ngăn đàn được bấm. Số 7 dây 1 nằm ngay trên số 0 dây 6 chỉ ra rằng sẽ khẩy cùng một lúc 2 dây 1 và 6, mà dây 1 bị bấm ở ngăn 7. Sau đó khẩy dây 2 không bấm, rồi dây 3 không bấm, rồi dây 1 ngăn 7, rồi dây 2 không bấm... Các con số cách đều nhau có nghĩa là chúng được khẩy theo nhau đều đặn.

Hình 3: TAB phổ thông của bài Romance de Amor

Nếu chỉ đọc TAB, người chơi chỉ có thể hiểu rằng bản nhạc có 2 bè: bè trầm (bass) là từng nốt nhạc ở đầu mỗi ô nhịp; và bè bổng là 9 nốt nhạc mỗi ô nhịp. Nhưng khi chơi lên, ta nghe rõ được là 9 nốt nhạc đó thực ra ở trong 2 bè, bè giai điệu là các nốt trên dây 1, và bè đệm là 2 dây, dây 2 và dây 3. Vậy ta thấy rằng không thể đọc TAB để hiểu bản nhạc có mấy bè. Cũng như đọc TAB thì không thể thấy được đường nét của giai điệu lên xuống nhanh chậm thế nào, là điều mà lối ký âm tiêu chuẩn thể hiện rõ ràng.

Thế nên người ta phải viết thêm dòng ký âm tiêu chuẩn bên trên TAB để giúp người dùng hiểu đường nét giai điệu, phân bè (giọng) và tiết tấu của bản nhạc, như trong hình 4. Và khi này, TAB chỉ là để giúp người chơi đàn biết phải bấm vào đâu trên các dây đàn.

Hình 4: Lối ghi nhạc hiện đại theo kiểu TAB.

Lối ghi nhạc tiêu chuẩn có TAB này là công cụ tuyệt vời cho người chơi đàn nghiệp dư hay không học nhạc lý. Với người có thể đọc được nốt nhạc thì TAB sẽ giúp họ biết sẽ phải bấm thế nào. Vì ở đàn dây có phím, một nốt nhạc cụ thể có thể được chơi ở 2, 3 vị trí khác nhau trên các dây khác nhau, không chỉ ra thì không biết chỗ nào là đúng.

Nhưng nhược điểm vẫn là không ghi rõ được phải bấm và khẩy bằng ngón nào. Thực ra, người chơi đàn ở trình độ cao luôn tự tìm thế bấm cho mình, ngón nào, dây nào... cho nên họ cũng không cần TAB. Còn người ở trình độ trung bình hay vỡ lòng thì vị trí bấm và việc chỉ định ngón phải dùng là tối quan trọng. Cách ghi TAB không đáp ứng được điều đó. Và cách ghi rõ vị trí bấm dây này là vô ích đối với người trình độ cao. Nó vừa thừa vừa thiếu.

Tác hại quan trọng của việc chỉ dùng TAB.

Đọc TAB cũng cần luyện tập cho quen, tức là cũng mất thời giờ để học thuộc các ký hiệu, cũng phải luyện tiết tấu... y như học nhạc lý vỡ lòng. Và người chỉ dùng TAB phải là người có thẩm mỹ âm nhạc tốt: khi nghe các âm thanh tự mình khẩy lên theo TAB thì phải biết âm nào là chính âm nào là đệm để mà phân câu và diễn tả. Mà trớ trêu là người mới học đàn thì thẩm mỹ âm nhạc của họ chưa phát triển, nên việc phân câu sai dễ hình thành cách hiểu nhạc sai sau này. Trong khi với cách ghi tiêu chuẩn, các dấu phân câu bằng dấu lặng giúp người học hiểu câu nhạc một cách dễ dàng. Dĩ nhiên, vì là nhạc cụ khẩy, âm thanh luôn tắt sớm nên nhiều người cho rằng không cần đến dấu lặng. Và đó là điều sai lầm mà người ta áp dụng vào TAB.

Trong thực tế, người chỉ dùng TAB luôn luôn nghe bản nhạc do ai đó chơi trước, rồi tìm TAB để tập. Điều này làm hỏng tính độc lập trong diễn tả âm nhạc của nhạc sinh trung bình hay nhạc sinh ít năng khiếu. Nó làm mất đi sự tuyệt vời trong việc thưởng thức các âm thanh do chính mình tạo ra dựa trên một bản ghi nào đó.

Một tác hại nữa của việc chỉ dùng TAB là sự lãng phí thời gian cho một thứ xét ra là vô bổ. Vì sau nhiều năm chơi nhạc mà không học nhạc lý, khi gặp một bản nhạc tiêu chuẩn viết cho nhạc cụ khác (violon hay kèn, sáo...) hay một bài hát mới được in theo ký âm pháp chính quy, người chỉ dùng TAB sẽ không thể tự chơi được giai điệu của nó và hoàn toàn mất đi phần thưởng của sự khám phá. Tức là họ sẽ chỉ chơi được những bản nhạc đã chuyển thành TAB cho họ, và tự rút vào một thế giới hẹp, thế giới TAB.

Với người không có năng khiếu thiên phú, ký âm pháp là cơ bản để học nhạc, bất kể thể loại nhạc cụ. Cách ghi nhạc bằng TAB là cách ghi phổ biến thời xưa cho các loại đàn dây có phím, và ngay từ thời đó các nhược điểm của nó đã là rõ ràng, chỉ một điều nổi bật là dễ dùng.

Trong Ký Âm Pháp hiện đại, mỗi nhạc cụ có một số ký hiệu đặc trưng của nó để ghi các kỹ thuật ngón, ghi thêm vào bên cạnh, bên trên hay dưới các nốt nhạc của ký âm pháp chính quy.

Ở Tây Ban Cầm, 6 dây đàn được ghi bằng số Ả Rập bên trong vòng tròn; bấm bằng 4 ngón tay trái, ghi bằng số Ả Rập: 1, 2, 3, 4. Xưa dùng cả ngón cái, ghi là p –pulgar. Dây buông ghi bằng số 0; khẩy bằng miếng khẩy (plectrum, pick) có ký hiệu khẩy lên hay khẩy xuống hay rải; hoặc khẩy bằng 4 ngón tay phải, ghi bằng chữ Tây Ban Nha, là p(ulgar), i(ndice), m(edio) và a(nular). Các ngăn đàn được ghi bằng số La Mã (I, II, III, IV...). Khi chặn ngón 1 ở ngăn nào đó thì ghi ngăn đó bằng số La Mã sau chữ B(aré), (chữ B này có thể bỏ qua vì hiểu ngầm) có vạch chỉ rõ chặn đến lúc nào. Và còn các ký hiệu khác nữa như dấu ghi âm bồi, dấu luyến láy, dấu ghi việc lướt ngón, dấu rải lên, rải xuống, vân vân, càng ngày càng nhiều kỹ thuật mới tức là thêm dấu mới.

Với người tập đàn theo phương pháp dùng ký âm pháp thì tùy trình độ mà các chi tiết kỹ thuật cần thiết sẽ được ghi vào bản ký âm. Để chơi được bản Romance theo cách ghi trong hình 2, trình độ phải là thông thuộc khá nhiều vị trí trên cần đàn, nên không cần phải ghi chú ngăn đàn hay dây đàn.

Tuy nhiên nếu không biết các nốt nhạc nằm đâu trên cần thì vẫn có thể đọc bản ký âm tiêu chuẩn với các chi tiết thêm vào và vẫn không cần đến TAB như trong hình 5. Mỗi nốt nhạc được ghi chú rõ ràng khẩy bằng ngón gì (p, a, m, i), bấm bằng ngón gì (1, 2, 3, 4, 0) vào ngăn thứ mấy (số La Mã) trên dây nào (số trong vòng tròn). Và sự cách đều của các nốt nhạc ghi ra sẽ giúp người đọc hiểu rằng chúng được tấu lên đều đặn theo nhau. Và có một quy ước ít ai nhấn mạnh, là khi các nốt nhạc là lặp lại của các nốt trước thì chúng được xử lý giống mấy nốt trước, nên không cần ghi chú gì. Cách ghi này rõ ràng và gọn nhẹ hơn cách ghi vừa dùng khuông nhạc vừa dùng TAB ở hình 4

Hình 5: 4 ô nhịp bản Romance De Amor dành cho người không biết ký âm pháp.

Sau đây là trọn bản Romance De Amor với các ghi chú dành cho người không biết ký âm pháp.




 

Saturday, May 4, 2024

Nâng cao mặt/bản phím (raised fretboard or elevated fretboard)

Nâng cao mặt/bản phím (raised fretboard or elevated fretboard)

Có người cho rằng mặt phím nhô cao hơn thì dễ bấm hơn khi chơi quá ngăn 12. Vì khi chơi ở đó, với cây đàn thông thường thì cườm tay bị thùng đàn cản. Cách giải quyết dễ dàng sự cản trở này là cắt bớt thùng đàn (cutaway). Nhưng cắt thùng đàn lại không được ưa chuộng trong giới guitare classique. Lý do là ảnh hưởng đến phẩm chất âm thanh, và mất cân đối về mỹ thuật. Mà cắt thùng đàn thì cũng không giải quyết triệt để khó khăn khi phải bấm ở những phím cuối cùng. Nhiều nhà làm đàn đã cố gắng giải quyết khó khăn đó bằng cách làm mặt phím cao lên, nhô hẳn khỏi mặt thùng đàn, cao hơn mặt phím thông thường khoảng từ 10 đến 30 mm tại phím 12. Việc làm mặt phím cao hơn có thêm nhiều ưu điểm khác như tiếng đàn khi bấm quá ngăn 12 sẽ ngân hơn, mặt thùng đàn (soundboard) không bị bản phím kéo nứt, và việc chế tạo cũng như sửa chữa cần đàn dễ dàng hơn, so với cách làm đàn thông thường.

 


Vài yếu tố không được thay đổi khi nâng cao bản phím:

-       khoảng cách từ đỉnh thanh chống dây (saddle) đến mặt đàn: để giữ phẩm chất tiếng

-       khoảng tĩnh không (action) tại phím 12: giữ mức độ thuận tiện.

 

Hiện có 2 cách giải quyết.

1. Thay đổi độ nghiêng của cần.







 


Với cách chế tác này, cần đàn ở phía đầu (ngăn 1) đã bị dời xa khỏi người chơi vì với mặt phẳng lưng đàn tựa vào ngực và cạnh đàn làm điểm tựa cho tay phải thì tư thế của người chơi là y hệt như đàn không nâng bản phím, chỉ có tay trái phải vươn ra. Tuy chỉ vươn thêm 3 hay 4 cm nhưng đủ để làm ảnh hưởng đến thế của cánh tay, cổ tay và bàn tay trái. Tay vươn ra thì khó cong cổ tay.

2. Gọt cạnh đàn và uốn cong mặt tiếng (soundboard)






Cách này không ảnh hưởng đến thế tay mà lại dễ chơi ở những ngăn xa hơn ngăn 12. Nhưng thể tích thùng đàn bị ảnh hưởng (nhỏ lại), và mặt đàn bị uốn cong tạo độ căng không mong muốn và khó kiểm soát. Tức là phẩm chất âm thanh bị ảnh hưởng.

 

Sunday, July 2, 2023

Bù trừ cho độ căng của dây đàn guitar. – Tension Compensation

Với cùng một độ căng, tần số dao động tỷ lệ nghịch với chiều dài dây. Tần số gấp đôi khi đoạn dây còn một nửa.

Trên cùng một đoạn dây đồng chất, tần số tỷ lệ thuận với độ căng dây. Dây càng căng thì tần số càng cao.

 Các phím đàn được sắp xếp dựa vào công thức tính tần số các nốt của thang âm điều hòa 12 nốt. Theo đó phím 12 nằm tại trung điểm của dây buông, và cho âm cao hơn 1 bát độ so với dây buông.

 

Âm bồi (họa âm) – harmonic sounds

 Khi bắt buộc dây rung thành 2 múi (bằng cách tạo một nút chấn động tại trung điểm của đoạn dây) thì mỗi múi nhỏ này có tần số gấp đôi tần số của cả đoạn dây lúc chưa chia. Vì dây không thể rung thành một múi nên tần số cơ bản của dây biến mất. Hiệu quả âm thanh này gọi là âm bồi hay họa âm. Tạo nút chấn động bằng cách khẩy dây trong khi dùng vật chạm nhẹ không cho dây rung ở điểm giữa của nó. Ở đây ta chỉ xét âm bồi thứ nhất, tức là âm bồi do dây rung thành 2 múi.[1]

 Trên đàn guitar, bấm tại phím 12 (là phím chính giữa sợi dây), nốt nhạc có được cao hơn một quãng tám so với nốt của dây đó không bấm. Tức là âm thanh đó có tần số gấp đôi của dây buông.

 Vậy, về lý thuyết, trên cùng dây, bấm tại phím 12 cho ra âm thanh có cùng tần số với âm bồi của dây buông.

 Tuy nhiên, khi bấm ở phím 12, điểm giữa của dây bị dời đi một khoảng bằng khoảng tĩnh không. Tức là chiều dài dây thay đổi, dài hơn. Thay đổi chiều dài mà khối lượng dây không đổi nên độ căng của dây tăng thêm. Vậy khi bấm, đoạn dây rung sẽ dài hơn và độ căng tăng thêm. Vì độ căng của dây thay đổi nhiều trong khi độ dài thay đổi không đáng kể nên kết quả là tần số tăng thêm. Âm thanh khi bấm cao hơn âm thanh của âm bồi. Tức là khi bấm ở phím 12, ta có âm thanh lạc giọng (off tune). Tĩnh không càng cao thì lạc giọng càng nhiều. Dây càng cứng khỏe thì lạc giọng càng nhiều.

 Dây bị kéo căng khi bấm

Để bù lại sự gia tăng tần số này, khoảng cách từ chỗ bấm đến thanh tựa dây ở ngựa được tăng thêm, bằng cách dời ngựa đàn về phía đuôi đàn (khoảng 2 mm ~ 2.5 mm). Khi này, đoạn dây bấm sẽ dài thêm và tần số giảm đi. Khoảng cách từ phím 12 đến thanh tựa dây sẽ lớn hơn khoảng từ phím zero đến phím 12. Và trung điểm của dây cũng cách vị trí cũ (khoảng 1mm).

 Hệ quả là nốt bấm ở ngăn 12 có cao độ bằng hoặc gần bằng âm bồi tức là có tần số sát với 2 lần tần số của  dây buông, quãng 8 có được không còn lạc giọng nhiều. 

 Ngựa đàn dời về phía đuôi đàn

 Các phím khác, khi bấm cũng tăng thêm độ căng dây. Phím càng xa đầu đàn thì độ căng tăng thêm càng nhiều. Để giải quyết, tất cả các phím, trừ phím zero, được dời về phía đầu đàn để tăng độ dài đoạn dây bấm. Tuy nhiên người ta không dời tất cả các phím mà dời chỉ một phím zero về phía ngựa, làm dây ngắn lại. Lúc này vị trí các phím bị lệch về phía đầu đàn, làm đoạn dây bấm dài thêm, cho ra tần số thấp hơn bù lại với độ căng của lực bấm, sẽ cho âm thanh có tần số sát với lý thuyết.

 Gối dây dời về phía thùng đàn.

 Tuy dây đàn được thêm vài milimettre, người ta vẫn tính chiều dài dây theo kích thước chưa bù. Trong thực tế, cây đàn gọi là có chiều dài dây là 650mm sẽ có khoảng cách từ gối đàn đến thanh tựa dây là 651.5mm hay 652mm.

 Vì có nhiều loại dây cứng mềm khác nhau, và ngay như cùng một loại dây thì trong một bộ, độ cứng của từng dây cũng khác nhau, nên người ta không thể có một công thức toán học để tính toán khoảng bù độ căng dây. Thêm nữa, tĩnh không ưa thích của từng người chơi đàn cũng khác nhau. Nếu khoảng tĩnh không nhỏ, không cần bù nhiều như ở đàn có tĩnh không lớn. Người có ngón tay dài và khỏe thường sẽ thích tĩnh không lớn vì tiếng đàn trong hơn và có thể chơi mạnh hơn. Người mới tập đàn hay ngón tay ngắn thì chỉ phù hợp với đàn có tĩnh không nhỏ.

 Và vấn đề bù độ căng dây này vẫn là nghệ thuật của nhà làm đàn. Nó làm tiếng đàn hay dở khác nhau.

 Cũng vì độ căng dây tăng lên khi bấm, mà sự bù trừ thì không thể tuyệt đối chính xác, nên tiếng đàn guitar có rất nhiều màu sắc (do sai lệch tần số vài cents ở các nốt bấm và cùng một nốt nhưng trên các dây khác nhau), khác hẳn các nhạc cụ khác. Cũng vì điều này mà có nhiều cách so dây đàn khác nhau để chơi thật hay mỗi bài nhạc khác nhau (so với máy, so dây bằng âm bồi, so dây buông với dây bấm ở phím 5, so quãng 8…)

 July 1st 2023

 Vũ Hồng Phúc



[1] Các âm bồi thứ nhì, thứ ba, tư… v.v… có được khi dây rung thành 3, 4, 5 múi do tạo nút tại điểm chia dây thành 3, chia 4, 5 phần bằng nhau.

Friday, June 30, 2023

Tiếng rè của dây đàn guitar

Rè có thể do nhiều nguyên nhân. Bất cứ một chi tiết nào của cây đàn không chặt đều có thể gây rè tiếng. Có khi do lỏng vít vặn khóa hay các mối keo dán ở các chi tiết của cây đàn, có khi do gỗ nứt ở đâu đó, có khi do có vật đè nhẹ trên mặt rung –như đoạn dây đàn thừa ở con ngựa, cũng có khi do đoạn thừa ở trục vặn dây; sử dụng dây cũ bị tróc cũng rè. Ở đây chỉ xét việc rè do dây đàn chạm phím khi rung.

Cần đàn (neck), Mặt phím (fret board), Ngựa đàn (bridge), Thanh tựa chống dây ở ngựa (saddle), Thanh gối chia dây ở đầu (nut), Phím (fret), Khoảng Tĩnh không (action).

Dây rung thành hình múi, chỗ dây văng xa nhất là ở giữa đoạn dây. Hai đầu dây tựa vào phím và thanh tựa chống dây thì cố định, khoảng văng là zero.

 

Dây số 6 (sợi trên cùng) đang rung


Dây rung trong mặt phẳng qua 2 đầu dây và vị trí rời dây của vật khẩy.

Nếu dùng móng tay hay miếng khẩy ép dây xuống, vuông góc với mặt đàn, thì khi bật, dây sẽ rung theo hướng lên xuống vuông góc với mặt đàn. Móc dây lên rồi buông cũng thế. Khẩy cách vuông góc này thì khả năng dây chạm phím rất cao. Nếu kéo dây ngang để khẩy, song song với mặt đàn, thì dây rung ngang. Khẩy kiểu này thì dây không chạm phím. Tuy nhiên trong thực tế không thể khẩy ngang song song với mặt đàn vì móng tay hay miếng khẩy lúc rời dây đều ở vị trí thấp hơn (khi ép) hay cao hơn (khi móc) so với độ cao của dây trên mặt đàn. Khi rung, dây văng xa nhất ở điểm giữa, nơi này là bụng của dao động. Nên cần có khoảng tĩnh không (action, tức khoảng trống để dây rung –là khoảng cách từ đỉnh các phím đàn đến mặt dưới của dây đàn) đáng kể giữa dây và phím đàn để tránh chạm phím và rè. Tĩnh không ở giữa dây buông (ở phím thứ 12) được dùng để xét tiêu chuẩn.

Vì dây trầm rung văng xa hơn dây bổng nên tĩnh không của dây số 6 phải lớn hơn của dây số 1. Tĩnh không càng nhỏ thì càng không thể khẩy mạnh: cường độ càng cao thì biên độ càng lớn. Do vậy, thanh tựa chống dây ở ngựa và gối đàn ở đầu có độ cao ở phía dây trầm lớn hơn phía dây bổng. Nó dốc xuống phía dây bổng. Có người giải quyết việc này bằng cách bào mặt phím thấp đi ở phía dây trầm và không cần làm dốc thanh tựa và gối dây. Nhưng làm như vậy, cần đàn có độ cứng không đều, dễ bị cong vênh qua thời gian. Và nhất là nó vô ích vì đàng nào thì người chơi đàn cũng phải mài lại để tinh chỉnh độ cao của 2 vật chống dây đó.

Các phím thì nằm trong khoảng rung của dây, nên để tránh cho dây khỏi chạm phím, phải nâng cao thanh tựa chống dây. Càng cao càng tránh được rè. 

 Thanh tựa càng cao càng khó bị rè

 

Tuy nhiên, tĩnh không càng lớn, tức là dây càng cách xa mặt phím, thì càng khó bấm, khó luyến láy. Tĩnh không lớn nhất cho dây trầm không nên quá 4mm, cho dây bổng không nên quá 3mm. Ngón tay càng ngắn thì tĩnh không nên càng nhỏ.

Tất cả các đỉnh phím thì nằm trên một đường thẳng (vì phím thì dài, nên có thể bảo rằng tất cả đỉnh phím phải nằm trên một mặt phẳng). Phím nào cao hơn mặt phẳng đó thì sẽ bị chạm dây khi bấm ngăn đàn trước nó. Phím nào thấp hơn, thì bấm phím đó sẽ rè do dây chạm phím kế nó.

Nếu mặt phím vồng lên (cong lồi) thì dây sẽ chạm (rè) khi bấm các phím phía đầu đàn. Nếu mặt phím hũm xuống (cong lõm), sẽ chạm các phím khi bấm phím phía miệng đàn.

 Mặt phím cong lồi

 Mặt phím cong lõm

 

Cả hai trường hợp mặt phím lồi hay lõm đều gây rè và phải nâng cao tĩnh không bằng cách nâng cao thanh tựa chống dây. Và như vậy tĩnh không sẽ lớn, gây khó bấm.

 

Vấn đề chạm phím của phần dây thụ động, không bị khẩy.

Phần dây này là phần bên kia của đoạn dây rung khi bị bấm vào phím nào đó. Khi đoạn dây này gây rè vì chạm phím, thì tiếng rè đó được gọi là tiếng rè ngược (back buzz).

Khi được bấm, đoạn dây bị chia làm 2 phần, phần được gẩy tiếp xúc với hộp đàn qua ngựa đàn là phần rung chính, phát ra âm thanh chính của nốt nhạc. Phần dây còn lại ở bên kia vị trí bấm, vì cùng là một thể với phần chính, nó cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi sự rung của phần chính, và nếu không bị cản trở nó sẽ rung theo với cường độ rất nhỏ. Ngay cả khi dây không bị khẩy, nó vẫn có thể cộng hưởng với sự rung của dây khác nếu phù hợp tần số. Đây là phần thụ động của dây khi bị bấm (in-active) nhưng có đóng góp vào phẩm chất của âm thanh. Khi đoạn này dài, tức dây bấm từ ngăn thứ 5 trở lên, thì độ ma sát không đủ để giữ cho nó khỏi rung. Nó sẽ chạm vào các phím và gây rè. Đây là một lý do cho việc nâng cao phím zero, vừa để tránh rè vừa để có thêm âm sắc. Và phải nâng đến một độ cao tối thiểu nào đó thì mới có thể tránh rè khi bấm các phím xa, vì khi này bụng chấn động có biên độ lớn. 

 Gối dây cao ngang đỉnh phím phẳng: đoạn thụ động có thể gây rè

Thanh gối chia dây ở đầu đàn (nut) chính là phím số không (fret zero). Để cố định vị trí dây, nó được xẻ rãnh. Các rãnh này có đáy không được thấp hơn mặt phẳng của đỉnh các phím nói ở trên. Và để giải phóng ma sát cho phần dây thụ động khi bấm, phím zero được thiết kế cao hơn mặt phẳng đỉnh phím.

 Gối dây được nâng cao để tránh rè ngược.

Nâng cao phím zero tức là tĩnh không ở phím 12 lớn thêm. Để trả tĩnh không lại độ lớn ban đầu, phải hạ thấp thanh tựa chống dây ở ngựa. Việc này làm giảm tĩnh không tại phím kế với phím bị bấm, và có nguy cơ bị rè.

Khi nâng cao phím zero thì độ cứng của dây ở đầu mút của nó làm cho việc bấm ở ngăn thứ nhất (và thứ hai) rất khó khăn. Đặc biệt là gần như không thể chặn nhiều dây ở ngăn thứ nhất. Vì khoảng cách từ dây đến phím quá xa, phải bấm rất mạnh thì dây mới ăn phím mà tạo nốt. Để giải quyết, các phím đầu được nâng lên sao cho các đỉnh phím nằm trên một đường cong lõm.

Các phím đầu được nâng cao

 Và như vậy, mặt phím có dạng cong lõm, nhưng đường cong này có tiếp tuyến tại phím cuối cùng là đường thẳng của mặt phẳng mặt đàn. Không như trường hợp mặt phím lõm xét ở các đoạn trước. Việc này để bảo đảm tĩnh không tại tất cả các phím mà vẫn giữ được độ cao nhất định của thanh chống dây ở ngựa đàn.

Trong thực tế, khi cần đàn và mặt phím được làm bằng gỗ đủ mềm, thì chỉ cần làm mặt phím phẳng tuyệt đối, khi căng dây, sức kéo của dây sẽ làm cần đàn cong một độ vừa phải để tạo độ lõm cần thiết. Nếu cần đàn làm bằng gỗ có độ cứng quá cao, khó bị cong, thì mặt phím sẽ được bào mỏng bớt về phía miệng đàn. Và việc này không dễ làm.

Một số hãng làm đàn gắn bên trong cần đàn một thiết bị bằng thép để điều chỉnh độ cong của cần (gọi là truss rod). Khi này, cấu trúc và vật liệu của cần đàn bị thay đổi. Nhiều nghệ sĩ không chấp nhận nhạc cụ như vậy. Dù chưa ai chứng minh được rằng nó làm tiếng đàn xấu đi. Tuy nhiên, vì thiết bị này làm cong toàn bộ mặt phím nên khi chỉnh nó thì cũng phải chỉnh lại độ cao của thanh tựa dây để giữ tĩnh không.

Khi mặt phím cong lõm, ta bảo rằng cần đàn có “neck relief” (làm dịu, giảm căng, với ý làm giảm tĩnh không cho dễ bấm).

Với 2 dây trầm số 6 và số 5, việc rè ngược rất dễ xảy ra ở các phím từ phím thứ 7 trở lên vì đoạn thụ động đủ dài (bụng dao động lớn) và có tần số gần với các nốt nhạc đang chơi (bị kích cộng hưởng).

Có thể kiểm tra việc rè của dây số 6 bằng cách chơi các nốt tại các ngăn VII, VIII, IX, X cùng lúc với các nốt nhất định nào đó trên dây khác.

- Ngăn VII (nốt B) chơi cùng nốt E trên dây 3 (ngăn IX) hay trên dây 4 (ngăn II)

- Ngăn VIII (nốt C) chơi cùng nốt B trên dây 4 (ngăn IX)

- Ngăn IX (nốt C#) chơi cùng nốt A trên dây 4 (ngăn VII)

- Ngăn X (nốt D) chơi cùng nốt G# trên dây 4 (ngăn VI) hay trên dây 5 (ngăn XI)

Tương tự, dây số 5 cũng có những vị trí bấm dễ bị rè ngược như dây số 6.

Từ dây số 4 trở lên dây số 1, chúng khó bị rè ngược vì biên độ rung của phần dây thụ động rất nhỏ. Một khi không rè ngược với dây số 6 thì không bao giờ bị rè ngược với những dây cao này.

Có thể kiểm tra độ cong của cần đàn bằng cách cho dây số 6 ăn phím (bấm hay dùng capo để kẹp) tại phím 1 và một phím phía cuối (phím 12 đến 19), khẩy nhẹ theo chiều ngang vào dây ở khoảng giữa của 2 vị trí cố định đó. Nếu mặt phím phẳng hoặc cong lồi thì toàn bộ đoạn dây đó chạm vào các phím và khi gẩy chỉ có tiếng rè, hoặc dây không rung do ma sát cao. Nếu có nhạc âm, là mặt phím có độ cong lõm. Càng lõm nhiều thì càng có thể gẩy mạnh mà không rè. Lõm nhiều quá thì dễ bị rè phím khi chơi bình thường (rè xuôi). Để hết rè xuôi, phải nâng cao tĩnh không, điều này gây khó bấm ở những phím phía cuối. Trong thực tế, độ lõm lý tưởng ở khoảng giữa của 2 chỗ cố định nói trên, tức là khoảng cách giữa đỉnh phím và đáy dây, là từ 0.2 đến 0.3 mm (bằng bề dầy của giấy in danh thiếp thông dụng).  

Kiểm tra độ lõm của mặt phím

 June 30th, 2023

Vũ Hồng Phúc

 

Saturday, April 1, 2023


Ave Maria by Pietro Antonio Stefano Mascagni