Giới thiệu các kỹ thuật cơ bản của tay trái (tay bấm dây)
Giới thiệu các kỹ thuật cơ bản của tay trái (tay bấm dây)
- Chạm dây:
Chạm nhẹ vào dây ở những vị trí đặc biệt cùng lúc với cú khẩy để tạo âm bồi (họa âm, harmonic sounds, còn gọi là tiếng chuông). Có 2 kỹ thuật tạo âm bồi:
Âm
bồi tự nhiên (natural harmonic):
Dùng bất kỳ phần mềm nào của các ngón tay trái chạm nhẹ vào dây tại những điểm
nhất định trên dây ngay khi khẩy dây ở gần ngựa đàn để tránh nút của giao động.
Thời gian chạm dây càng ngắn càng tốt. Âm thanh có được do dây rung thành 2 hay
nhiều đoạn bằng nhau, cộng hưởng nhau và vang lên trong trẻo đặc biệt. Các điểm
chạm là điểm chia đôi, chia ba, tư, năm hay sáu của sợi dây, là các nút giao
động. Có nhiều cách ký âm cho thủ pháp này: Đầu nốt có thể có hình thoi và chỉ
biểu thị dây đàn sẽ bị chạm, phím bị chạm ghi bằng số Ả-Rập ngay sau chữ "harm."
hay "Arm." Cách ghi này không chỉ ra cao độ thực của âm thanh.
Âm bồi tự nhiên trong bài Grand Jota của F. Tarrega
Âm
bồi nhân tạo (artificial harmonic)
hay âm bồi quãng 8: Thường được ghi
chú bằng arm.8va. Âm hiệu được ghi theo cao độ của ngón bấm chứ
không biểu thị cao độ thật. Bấm trên dây tại vị trí có cao độ được ghi, ngón
trỏ i
tay phải chạm nhẹ vào cũng dây đó
tại phím cách ngón bấm 12 ngăn và khẩy bằng ngón áp út a. (Đây là kỹ thuật của
tay phải).
Âm bồi quãng 8 trong Prelude I của F.
Tarrega
Có thể có nhiều bè (voices)
âm bồi tự nhiên.
Âm
bồi tự nhiên ở 2 và 3 bè ở cuối bài Thème
et Variations en Ré Majeur của F. Sor
Và có
thể có âm bồi nhân tạo được kèm với một hay hai bè đệm, khẩy bởi ngón cái p
và ngón giữa m.
Âm bồi quãng 8 trong Danza Española No.5 của E. Granados
- Bấm dây (fretting):
Bấm bằng đầu mút (đỉnh) của ngón tay, vừa đủ sức để có tiếng đàn trong trẻo.
Lóng bấm càng đứng càng tốt (vuông góc với mặt phím) để tránh chạm dây khác
đồng thời để thuận lợi cho các ngón khác. Tránh bấm mạnh quá mau làm đau đầu
ngón và mau mỏi. Thay ngón để bấm vị trí khác (mục đích là phân chia công việc
cho chúng). Tránh dùng cùng một ngón để bấm 2 âm hiệu liên tiếp khác nhau vì dễ
gây cụt tiếng, trừ khi phải áp dụng kỹ thuật lướt, trượt tiếng (slide, glissando). Bấm và
giữ nguyên độ ấn để tiếng ngân dài. Chỉ bấm dây ngay khi khẩy, bấm trước sẽ làm
âm đi trước (nếu có) bị cụt tiếng. Với hài thanh rải (arpeggios) thì áp dụng luật âm xuất hiện trước được bấm trước: ngón
vào tuần tự chứ không cần cùng một lúc.
Bịt dây là đè dây
bằng phần thịt mềm ở thân lóng đầu ngón tay, nó thuộc về kỹ thuật chặn dây (barré) nhưng cũng có khi áp dụng trên
một dây theo nhu cầu của thế bấm hay tốc độ, tuyệt đối không bịt dây nếu có thể
bấm thẳng được.
- Rung tiếng (vibrato): giữ nguyên áp lực và vị trí
đầu ngón bấm nhưng lắc cổ tay hay cánh tay để làm âm thanh chao lên chao xuống
như sự rung giọng khi hát. Thủ pháp này thường không ghi rõ trên trang nhạc,
nhưng việc áp dụng thủ pháp này thường xuyên và đúng chỗ làm bản đàn thêm đẹp.
- Lướt ngón, trượt ngón (slide,
glissando): Sau khi khẩy âm hiệu đầu tiên đang bấm, lướt vuốt ngón bấm đến
vị trí bấm kế tiếp và khẩy, tạo thành tiếng trượt giữa 2 âm bị khẩy. Âm có được
giống như bị uốn lên (hay xuống). Kỹ thuật này ghi bằng một đường thẳng xiên,
nối trên hoặc dưới 2 đầu nốt nhạc nhưng không chạm vào nốt. Khi có dấu luyến đi
kèm, thì âm hiệu sau không bị khẩy. Để đạt hiệu quả, khi vuốt, ngón vẫn phải có
một áp lực vừa đủ trên dây; nếu không thì âm bị cụt và không nghe tiếng vuốt,
chỉ giống như 2 âm thanh rời rạc. Trượt ngón đang bấm đến vị trí khác trên dây
mà không tạo thành tiếng vuốt luôn
giúp bấm được chính xác.
Thủ pháp trượt ngón cũng
có khi được áp dụng trên 2 dây (trượt 2 ngón) hay thậm chí 3 dây đàn.
Lướt
2 bè, trong Gran Jota của Tarrega
Trượt ngón là dời bàn tay
đến vị trí khác, dù chỉ trượt một ngón, nên cần nắm vững kỹ thuật dời tay.
- Dời tay (position shifting) là chuyển vị trí của bàn tay dọc theo cần đàn.
Dời gần: Lắc bàn tay với cổ tay làm trục mà không cần dời ngón cái, sau đó dời
ngón cái đến vị trí mới; Khi dời xa thì lắc cánh tay trước (buông lỏng ngón
cái) lấy cùi chỏ làm trục lắc. Nếu có một ngón nào đó tịnh tiến trên một dây
thì dùng ngón đó làm chủ cho cả thế bấm, các ngón khác canh theo nó mà vào vị
trí. Tức là lướt ngón đó trên dây trong khi các ngón khác nhấc lên và đổi vị
trí. Khi dời tay, ngón cái lỏng nhưng luôn rà sát song song trên cần đàn để ổn
định bàn tay. Vị trí sắp đến của ngón đầu tiên trong thế bấm mới sẽ là vị trí
nhắm tới chứ không nhất thiết luôn là ngón trỏ.
- Bấm hài thanh (chords): Khi nhiều âm hiệu phải được khẩy
cùng lúc, thì bấm các ngón cùng một lúc. Việc này sẽ khó nếu số âm hiệu nhiều
từ 3 trở lên. Cần chú ý tập chuyển giữa các thế bấm khác nhau, chuyển được càng
nhanh và càng liền lạc càng tốt. Khi chuyển hài thanh, nếu có ngón nào đó ở
cùng vị trí của cả 2 hài thanh thì không nhấc nó lên mà mượn nó làm gốc cho thế
bấm mới.
Giữ
ngón khi chuyển hài thanh
Bấm quãng (intervals): Khi 2 bè song song với nhau theo quãng 3, quãng 6, 8
hay 10 thì để liền lạc câu nhạc, thường phải áp dụng trượt ngón không có tiếng
vuốt.
Bài
tập quãng 3 và quãng 6, trong Méthode
của F. Carruli
- Bấm để tạo thành nhiều bè (voices): giữ nguyên sức ép của một hay
hai ngón và chuyển động các ngón kia sao cho giữ đủ trường độ của từng âm hiệu.
Có khi là bè đệm họa theo bè giai điệu, có khi là bè đối âm.
N.20 trong Twenty
Studies For The Guitar By F. Sor do Segovia tuyển chọn
- Chặn dây: đè nhiều dây tại một phím bằng thân của ngón trỏ. Tùy theo số dây cần đè mà kỹ thuật có khác nhau. Nhưng điểm
chung là không bao giờ để gập 2 lóng ngoài của ngón dù chỉ chặn 2 dây.
Có nhiều cách ghi chú
việc chặn dây: Thường là số La Mã ghi ngăn đàn sẽ chặn (thời Tarrega ghi bằng
số Ả Rập), có hay không có chữ tắt C
(Case, ngăn đàn) hay B (Barré) đằng trước. Có
khi có phân số "1/2" phía
trước để ghi chặn phân nửa số dây (Thời Tarrega, chặn nửa được ghi bằng M.C.). Đôi khi ghi bằng một ngoặc vuông
đứng, nối 2 âm hiệu bị chặn. Đã từng có thời bản ký âm chỉ ghi vị trí bàn tay
(với chữ position hay Case) và người chơi đàn phải tự hiểu có
chặn hay không. Ngày nay, việc ghi rõ số dây đàn và số ngón là đã đủ rõ bàn tay
sẽ ở vị trí nào, chỉ khi cần chặn thì ghi thêm.
Cách
ghi vị trí tay của Carruli, không có ghi chú chặn dây
Cách
ghi chặn thời Tarrega, bằng số Ả Rập
Cách
ghi ngày nay, bằng số La Mã, không cần ghi chặn phân nửa
Chặn ít hơn 4 dây (half
barre) thì lực đè tập trung vào lóng ngoài của ngón trỏ. Vì lóng đầu ngón
cái đối diện với 2 lóng ngoài của ngón trỏ (tức là bàn tay hạ thấp), nên 2 lóng
của ngón trỏ không thể gập lại được. Nếu chúng gập lại khi chặn dây, là bàn tay
đã để sai tư thế tối ưu. Ở kỹ thuật chặn nửa này, khớp giữa 2 lóng trong có thể
gập lại. Có khi chặn 4 dây vẫn có thể áp dụng cách chặn nửa
này.
Chặn suốt (full barre)
nhiều hơn 4 dây: Dùng bụng (khoảng giữa chiều dài) của ngón trỏ để bóp vào ngón
cái đang hạ thấp phía sau cần. Khi này ngón chặn sẽ có tư thế cong ngược (về
phía lưng bàn tay) làm da và cơ phía bụng ngón căng lên, đủ cứng để đè tất cả
các dây. Nếu bị rè ở phía đầu ngón thì đưa cổ tay thêm ra trước để nâng cao bàn
tay. Nếu đè chỉ bằng đầu ngón, thì ngón sẽ cong úp, các dây ở vùng bụng ngón sẽ
thiếu độ ép và rè hay câm. Khi chặn suốt, ngón tay thẳng, không có khớp nào bị
gập. Nhiều khi việc bấm các ngón còn lại sẽ ảnh hưởng đến độ nghiêng của ngón
trỏ đang chặn, lúc này có vẻ như chặn bằng mé ngoài của ngón chứ không chính
giữa mặt ngón.
Ngón út hoặc ngón áp út cũng có khi được dùng để chặn 2 hay 3 dây, và chỉ dùng
khi không thể bấm.
Chặn
3 dây bằng ngón út (Prelude BWV999
do Segovia soạn lại)
- Chẩy tiếng hay luyến âm (coulée, slur): Hai hay nhiều âm hiệu khác
cao độ luyến với nhau (ghi bằng đường cong nối 2 âm hiệu đầu và cuối), thực
hiện bằng chỉ một cú khẩy của tay phải với âm hiệu đầu tiên, rồi gõ ngón tay
trái vào dây hay gạt ngón đang bấm khỏi dây để tạo âm kế tiếp.
Gõ ngón (hammer): Quất, gõ
mạnh đầu ngón tay trái xuống dây ở vị trí bấm làm cho dây bị đập vào phím
và kêu lên (không giống hoàn toàn với cú bấm thông thường) mà không khẩy, tự
sức của cú quất đã làm dây rung thành tiếng. Gõ rồi thì đè ngón ở đó để dây
ngân đến hết trường độ của âm hiệu.
Gạt ngón (pull-off):
Gạt dây, bật ngang ngón đang bấm khỏi vị trí của nó tại thời điểm của âm hiệu
mới, (theo cách giống như khẩy dây) để có âm mới nhưng không khẩy bằng tay phải.
Kỹ thuật này không phải là nhấc ngón lên theo chiều đứng (so với mặt phím) mà
đầu ngón sẽ di chuyển theo chiều ngang, hướng về phía lòng bàn tay, nó gạt và
bật dây theo chiều ngang. Tuy nhiên, gạt ngang ngón thì sẽ chạm vào dây kế, nên
hướng đi tốt nhất của cú gạt là xiên lên, hoặc theo đường cong lên.
Gõ ngón có thể đi lên
hoặc đi xuống (đổi dây) nhưng gạt ngón chỉ có thể đi xuống.
Gõ và Gạt ngón có thể đi
liền nhau tạo thành chuỗi âm luyến láy mà không cần dùng đến tay phải. Thủ pháp
này được ghi bằng "chỉ dùng tay trái" (L.H. only hay mano izq. sola).
Rung (trille) hay Láy (mordent) cũng áp dụng thủ pháp này.
Chỉ dùng tay trái, trong Nocturne của Chopin
do Terrega soạn
Có khi phải luyến ở 2 bè (mỗi bè một dây).
Khi thủ pháp lướt ngón được dùng để luyến âm thì có
ghi chú bằng đường thẳng giữa 2 âm hiệu bị luyến.
Luyến
Âm và Trượt Ngón
Về tay trái (tay bấm dây) trên đàn guitar
Về tay trái (tay bấm dây) trên
đàn guitar
Để đạt được phẩm chất
cao về tiếng (rõ, ngân, không rè) khi bấm dây, cũng như tốc độ thay ngón, tốc
độ chuyển vị trí tay, thì người học đàn guitar cổ điển cần chú ý khá nhiều vấn
đề. Khi luyện sai một kỹ thuật nào đó thì nó sẽ thành nếp và ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển kỹ năng, hoặc gây cản trở không tiến bộ. Thế nên ta cần biết và
luyện cho đúng cách.
Nguyên tắc chung là làm
sao để ngón tay uyển chuyển, chính xác, nhanh nhẹn. Và bàn tay, cổ tay, cánh
tay và vai lưng được thả lỏng, không gồng cứng, để có thể xoay chuyển tùy
trường hợp.
Nhiều bậc thầy nhấn mạnh
vào vị thế của vai (phải hạ thấp vai), của cánh tay trước (phải đưa ra phía
trước), của cùi chỏ (chĩa xuống đất), của cổ tay (phải đưa ra ngoài mặt phím)...
vân vân. Hay bàn tay cùng các ngón tay phải có dạng cong nhẹ hình chữ C, không
gẫy gập co quắp. Tuy nhiên tất cả những điều đó đều được thỏa, đều được đáp ứng
đúng đắn nếu như ta có phương pháp tiếp cận kỹ thuật một cách đúng đắn. Đó là
luôn đặt câu hỏi, "Như thế nào là phù hợp nhất đối với cấu trúc
tay của ta để tạo ra âm thanh rõ ràng và khi cần nhanh thì làm như vậy có nhanh
được không?"
Phân tích về các yêu cầu kỹ thuật:
Dù cho ôm đàn theo kiểu nào, trên đùi phải hay
trên đùi trái, có dùng miếng đệm hay giá đỡ hay không, cần đàn nghiêng nhiều
hay ít, mặt đàn ngửa nhiều hay không, thì cánh tay, bàn tay và ngón tay cần
thỏa những điều kiện nhất định hầu cho việc tập và chơi đàn không bị cản trở.
Do vậy, cách ôm đàn không được bàn chi tiến trong chương này. Vì khi không đạt
được yêu cầu của bàn tay, cần thay đổi hay điều chỉnh cách ôm đàn.
- Ngón Cái: Dùng phần thịt mặt trước của lóng ngoài cùng (tip joint) của ngón cái để làm điểm tựa
cho các ngón khác bóp, mà đè dây xuống phím. Vì vậy ngón cái không cố định ở
một độ cao ở phía sau cần đàn, mà khi cao khi thấp tùy theo đang bấm ở dây nào,
nhưng không bao giờ nên để ngón cái lên cao quá nửa bề cao của cần đàn. Khi
ngón cái di chuyển lên cao quá, bàn tay sẽ giống như ôm nắm lấy cần đàn và như
thế cản trở sự linh hoạt và tầm vươn của các ngón bấm. Dọc theo chiều dài cần,
vị trí tốt nhất của ngón cái là đối diện với với ngón giữa.
Ngón cái và các ngón bấm trên cần đàn (thiết
diện).
Segovia phản đối việc dùng khớp xương giữa 2 lóng
của ngón cái để làm điểm tựa và việc vịn, móc ngón cái lên cần đàn để cho vai
và cánh tay nghỉ ngơi. Ngón cái càng thấp, càng giúp bàn tay có thể đưa
nhiều ra phía trước hầu cho các ngón có được vị trí bấm từ trên cao xuống dây
đàn.
Tuy nhiên cũng cần tập
để khi rung tiếng (vibrato) ta có thể
buông lỏng ngón cái và lắc cổ tay. Khi này, ngón cái gần như không đè vào cần.
Thử bấm dây và khẩy mà không chạm ngón cái vào cần và lắc tay lấy cổ tay hay
cùi chỏ làm trục. Thực ra, khi đặt cây đàn trên đùi một cách cân đối và đã có
cánh tay phải đè thân đàn xuống, thì không cần tay trái phải nâng đỡ nó, nên
khi buông tay, cây đàn vẫn ổn định.
Carruli có khi dùng ngón
cái để thò lên mà bấm vào dây số 6, có khi dây số 5. Điều này nên tránh tuyệt
đối. Nhưng các cầm thủ guitar điện
vẫn áp dụng vì cần đàn của họ quá nhỏ và kỹ thuật ngón trên loại đàn này rất
khác.
- Các ngón bấm: Bấm bằng chính giữa
đầu 4 ngón tay có móng cắt sát tối đa (tức là cắt hết phần trắng của móng),
trừ khi phải dùng kỹ thuật chặn dây (barré,
đè nhiều dây một lúc bằng một ngón). Bấm càng vuông góc với mặt phím càng tốt, mục đích là tránh để ngón chạm vào
các dây bên cạnh. Thói quen bấm vuông góc sẽ giúp ích rất nhiều khi coulé (chảy tiếng, luyến âm, slur).
Bấm càng
sát với phím càng tốt, để giảm thiểu
sự trượt dây trên phím làm mất độ trong trẻo của tiếng đàn. Và bấm càng nhẹ càng tốt để tiết kiệm năng lượng và
ngón linh hoạt hơn vì không bị gồng cứng. Khi bấm xa phím nhưng muốn tránh rè
thì phải bấm mạnh hơn nhiều. Bấm trên cùng một dây tại các vị trí khác nhau của
một ngăn đàn sẽ thấy rõ điều này. Trừ khi chặn dây, các ngón đều phải có dạng
cong, gập theo một chiều khi bấm.
Ngón út là ngón yếu nhất và ngắn
nên cần luyện cho nó trở nên linh hoạt và mạnh. Nó cũng là tiêu điểm để nhận
biết tư thế đúng sai của bàn tay. Khi nó phải vươn liên tục, hay khi bấm bị sụp
ngón, thì cần coi
lại tư thế của bàn tay.
Ngón giữa và ngón đeo nhẫn thường khó tách rời nhau do chúng có cùng một cơ điều
khiển ở khuỷu tay. Chúng thường kéo nhau hoặc cản trở nhau. Cần chú ý luyện để
có thể điều khiển chúng cách biệt lập.
Ngón trỏ hay được dùng để chặn dây
(barré). Khi chặn, phải tuyệt đối tránh để 2 lóng ngoài gập, dù chỉ chặn 2 dây
cao. Nhưng nếu để bàn tay đúng cách, việc đó không thể xảy ra.
Ngoài ngón trỏ, ngón út cũng có khi dùng để chặn.
Nhưng vì yếu và ngắn, không thể dùng ngón út để chặn quá 3 dây đàn.
- Bàn tay: Để giảm đến tối thiểu khoảng cách từ đầu ngón đến điểm sắp
bấm trên dây, giúp thêm độ nhanh và độ chính xác, tư thế lý tưởng của bàn tay
là tư thế giúp chớm nhẹ được cả 4 đầu ngón trên một dây ở 4 phím kế nhau mà cả
4 ngón đều cong đều, không ngón nào bị duỗi quá hay gập quá. Lúc đó các khớp ở gốc ngón
tay tạo thành đường song song với
dây đàn và xa khỏi mặt phím (để có thể bấm từ trên cao xuống), và như thế không
điểm nào của lòng bàn tay hay của gốc ngón tay bị sát hay chạm vào cần đàn.
Để có tư thế lý tưởng cho bàn tay như vậy, cần chú ý
đến tư thế của lưng, vai, của cánh tay, cùi chỏ và cổ tay sao cho thoải mái và
tự nhiên (không bị căng cứng, gượng ép, hay cố gắng). Và tất nhiên cần đàn sẽ
phải xiên, từ 45o đến 75o so với mặt đất.
Liên tục tập một số hài thanh đặc biệt (chords or arpeggios) trong khi cố không để ngón nào bị sụp; và luyện chạy thang âm đồng chuyển (chromatic scales, gammes chromatiques) trên từng dây (chạy hết 12
ngăn đàn trên mỗi dây) có thể giúp hình thành thói quen cho tư thế của bàn tay,
nó cũng giúp cả việc xác định vị trí ngón cái sau cần đàn. Khi tập bài mới, nếu
có thế bấm nào quá khó, cần xem lại tư thế của bàn tay, cổ tay, ngón cái, cánh
tay và vai và cách ôm đàn. Vì với một sự kết hợp tư thế của các thành phần đó,
sẽ có thể bấm được các thế bấm khó đó.
Một số người có mu bàn tay quá khum, các khớp gốc
ngón tay tạo thành đường cong quá nhỏ. Bàn tay như thế chỉ bấm được các thế bấm
đơn giản và hẹp (không vươn ngón được). Chỉ có thể khắc phục bằng cách luyện
tập nhiều hơn với thế bấm khó và chạy thang âm đồng chuyển trong khi thả lỏng
gân cốt ngón tay, tránh tuyệt đối việc gồng ngón.
Liên quan đến khả năng bấm dây thì có vài tiêu chuẩn
làm đàn như sau: - chiều dài dây là 650 mm; - chiều rộng mặt phím ở phím zero
là 51 mm; - khoảng cách giữa dây 1 và dây 6 trên miếng xương là 43 mm. – Tĩnh
không (action) tại phím XII của dây 1
là 2.5 mm, của dây 6 là 3.5 mm. Tiêu chuẩn đó
là phù hợp cho người có chiều cao trên 160 cm. Dưới chiều cao đó, có thể cần có
cây đàn với kích thước nhỏ hơn.
- Cánh tay:
đôi khi hạ thấp vai thì việc vươn
cánh tay ra phía trước giúp cho tư thế bấm thuận lợi hơn. Cánh tay trước di chuyển theo vị trí của bàn tay để luôn giữ được
cho các ngón tay vuông góc với dây. Cổ
tay lỏng để có thể uyển chuyển thay đổi góc bấm của các ngón. Khi bàn tay
cần di chuyển cực nhanh thì dùng cùi chỏ
làm trục, lắc cánh tay trước chứ không di chuyển cả cánh tay (cả cánh tay trên,
cùi chỏ và cánh tay trước), nhưng trước đó phải đưa cùi chỏ về hướng sắp chuyển
đến để khi bàn tay đến vị trí mới thì không bị xiên. Nhiều sách tự học đưa ra
những nguyên tắc cứng ngắc về tư thế của cánh tay (cánh tay trước, cùi chỏ, bắp
tay, vai) và người học cố bám sát chúng, dễ thành thói quen gồng cứng các khớp,
là điều cần tránh.
Cơ thể mỗi người mỗi khác, xương dài ngắn khác nhau,
nên chỉ cần nhớ nguyên tắc chính là thả lỏng, giữ cho mọi hoạt động tự nhiên theo
cơ thể mình, sao cho bàn tay luôn ở tư thế lý tưởng nêu trong phần nói về bàn
tay ở trên. Tuy nhiên, nếu chỉ liên tục chơi ở vị trí đầu đàn mà không để ý uốn
nắn, thì các thói quen xấu có thể hình thành cho cả bàn tay lẫn cánh tay. Như
vậy, chạy gam đồng chuyển lên đến ngăn XII là việc luyện tay bắt buộc ở trình
độ vỡ lòng, song song với các bài tập
hài thanh rải.
Giúp định hình
tư thế bàn tay:
Bằng thang âm
đồng chuyển.
Thang âm đồng chuyển là các âm hiệu liền nhau, khi
đi lên thì cao hơn nhau từng nửa cung (một ngăn đàn), khi đi xuống thì chúng
thấp dần từng nửa cung. Vì liên tục và kề sát nhau, ngón bấm cho chúng ở đầu
đàn sẽ liên tục là 0 (dây buông), 1 (ngón trỏ), 2 (ngón giữa), 3 (ngón áp út),
4 (ngón út), riêng dây số 3 không bấm ngón 4.
Cố giữ cho các đầu ngón khi chưa bấm thì luôn luôn
hờm sẵn ở gần vị trí sắp bấm. Tư thế bàn tay sai thì không bao giờ hờm ngón
được như vậy. Khi đã bấm thì giữ nguyên ngón bấm cho đến khi đổi dây, để luôn
giữ bàn tay ở tư thế đúng nhất.
Chỉ chơi ở đầu đàn. Chạy lên từ âm thấp nhất, là dây
6 không bấm, đến ngăn thứ 4 của dây 1 (bấm bằng ngón 4) thì chạy xuống. Khi đi
lên phải chú ý hờm ngón vào dây. Khi đi xuống, chú ý để không nhấc ngón lên cao
quá, chỉ vừa tránh chạm dây là đủ. Nhất là khi nhấc ngón 3 thì cần chú ý để giữ
ngón 4 không lên cao thêm. Để ý rằng ngón cái phía sau cần cũng sẽ di chuyển
lên xuống theo chiều cao của cần, tương hợp với dây đang bấm.
Bằng các thế
bấm đủ 4 ngón.
Thử các thế bấm gồm đủ 4 ngón đề nghị dưới đây theo
đúng số ngón tay chỉ định và sát phím hết khả năng của ngón (ngón 2 và 3 thường
rất khó rời nhau). Khẩy từng âm hiệu theo cách tỉa hợp âm (arpeggio) để kiểm soát độ chặt của ngón. Phải bảo đảm sao cho tất
cả các âm hiệu của hài thanh đều ngân vang hòa với nhau. Khi bấm, thử điều
chỉnh ngón cái lên xuống xa gần thẳng xiên sau cần đàn, xoay cổ tay, đưa cánh
tay tới lui xiên xẹo, vai nâng lên hạ xuống, vân vân, sao cho bấm được thoải
mái và nhận định tư thế cho bàn tay của mình. (Các hài thanh này không liên
quan đến nhau nên không nhất thiết phải chơi liền với nhau.) Tập các thế bấm
này giúp ta hiểu tầm quan trọng của việc phải để cho toàn bộ các phần của cánh
tay trái thật uyển chuyển mềm mại.
Về kỹ thuật reo dây (tremolo) ở guitar cổ điển
Về kỹ thuật reo dây (tremolo) ở guitar cổ điển
Hình
1: Hai ô nhịp đầu của bài Recuerdos de
la Alhambra của Tarrega
Thông thường reo dây
được chơi theo khuôn mẫu p-a-m-i
trong đó p (ngón cái) khẩy dây của bè đệm và các ngón a, m,
i khẩy bè giai điệu. Bốn ngón tuần tự khẩy dây theo
tiết tấu đều. Kỹ thuật này ghi bằng 4 dấu phần 32 (móc ba) hoặc có khi ghi bằng 4 dấu phần 16 (móc đôi). Nhưng cũng có khi khuôn mẫu (patttern, tổ hợp ngón) lại là p-i-m-a, tùy theo ý đồ sáng tác của tác
giả (như ở đoạn áp chót của bài Grand
Jota de Concierto của Tarrega), hoặc theo ý thích của người chơi đàn. Cũng
vì lệ thuộc vào kỹ thuật cá nhân, có người không chơi theo khuôn mẫu 4 ngón vừa
nêu mà chỉ dùng 3 ngón p, i và m, theo khuôn mẫu p-i-m-i hay p-m-i-m.
Bài Mandolinata
của Albert Heinrich (1870-1950) dùng kỹ thuật reo 3 âm a-m-i có bè đệm chập p
với a
(hình 2).
Hình 2: Ô nhịp đầu phần reo dây của bài Mandolinata của Heinrich
Ghi chú: Trong 2 hình trên, có dấu ghi
tắt việc rung reo âm thanh. Đó là các vạch chéo ngắn và đậm cắt đuôi nốt. Một
vạch có nghĩa dấu phần 8 (móc đơn), 2 vạch thay cho dấu phần 16 (móc đôi).
Nhưng nếu là 3 vạch thì có nghĩa là rung thật nhanh, giá trị gì cũng được.
Có những tác phẩm sử dụng kỹ thuật reo dây với các
khuôn mẫu khác. Nhạc sĩ guitar Trần Văn Phú (1948-2014) đã đề cập đến kỹ thuật
reo dây với các loại tổ hợp ngón trong cuốn sách Nghệ Thuật Reo Dây của ông, xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn.
Ở đây ta sẽ bàn về kỹ thuật reo dây với tổ hợp 4
ngón p-a-m-i.
Khi nắm bắt được nguyên tắc và kỹ thuật, ta có thể áp dụng vào các tổ hợp khác.
Ta cũng sẽ không bàn đến kỹ
thuật reo dây đôi (2 bè) vì nó đòi hỏi sự khéo léo quá sức bình
thường, khẩy một ngón qua 2 dây. Nhiều người reo dây đôi theo cách rasgueado, tức là dùng ngón trỏ quẹt lên xuống trong khi
ngón cái giữ không cho dây kế dưới rung lên nếu lỡ bị chạm. Reo 3 bè cũng dùng
phương pháp này, mặc dù vẫn có thể dùng cách búng 4 ngón (ngón út và a, m và
i)
theo một chiều giống như reo cả 6 dây trong kỹ thuật rasgueado tremolo.
Cấu trúc cơ và xương của 4 ngón tay thì không giống
nhau. Nên việc tạo cho các âm thanh đều nhau bằng các ngón khác nhau đòi hỏi
luyện tập công phu.
Ngón cái (p) rất khỏe, lại khẩy dây theo cách
khác với 3 ngón kia nên hiệu quả của nó nổi bật hơn. Tuy nhiên, để nó chơi bè
trầm và bè đệm thì lại hợp lý khi reo dây. Khi p chơi, vì tiếng rõ và to
hơn, nên dù bè giai điệu không có, vẫn tạo được cảm giác có nó ở đó nhưng bị
tiếng đệm che mất.
Ngón áp út (a) và ngón giữa (m)
được điều khiển bởi cùng một cơ ở cánh tay nên 2 ngón này kéo nhau. Khi cố gắng
chơi rời 2 ngón, ngón a sẽ nổi bật, chỏi ra khỏi bộ 3 a-m-i.
Nó khác biệt so với hai ngón kia về cả cường độ lẫn tiết tấu (tức là không đều).
Lại nữa, 3 ngón a, m, i là một bộ và p không ở trong bộ đó. Nên khi ráp 4
ngón vào với nhau, dễ xảy ra hiện tượng trễ, hoặc trễ giữa p-a hoặc trễ giữa i-p.
Ký âm như hình 3.
Hình 3: Các lỗi thường gặp so với ký âm chính xác
Nhạc sĩ Trần Văn Phú cũng chỉ ra lỗi vào trễ của
ngón p
trong sách của ông. Hình 4 dưới đây sửa lại cách ký âm khá chính xác của ông về
lỗi này mà trong nguyên bản, ông sử dụng dấu lặng để thấy rõ thời gian trễ.
Thực ra chỗ đó tiếng đàn còn ngân thì không ghi bằng dấu lặng được nên được ghi
lại như trong hình.
Hình 4: Kí âm chính xác lỗi vào trễ của ngón cái.
https://www.dropbox.com/scl/fi/dni0kui5hamrwd38smx4e/Trem_TVP.mp3?rlkey=whk8f1m5ozn7l21uge3hdgep8&st=3e6iqzo8&dl=0
Lỗi này xảy ra vì nhạc sinh chơi tách rời, diễn mỗi
bộ bốn âm p-a-m-i thành một cú rải ngón, coi nó như một đơn vị reo dây,
hết đơn vị này đến đơn vị kế mà ngón p luôn luôn rời xa khỏi ngón i.
Nhạc sĩ Trần Văn Phú đã hướng dẫn cách luyện các
ngón để thực hiện đúng kỹ thuật này. Ông cũng chỉ ra sự bất quân bình về độ
mạnh và tinh tế giữa các ngón i, m và a. Và ông nhấn mạnh vào
việc luyện tập các loại thang dấu (scales), mà nhạc sinh hay gọi là “chạy gam”,
với các tổ hợp ngón tay phải khác nhau theo phương pháp luyện ngón của Segovia,
để lấy lại độ quân bình cho chúng. Sharon Isbin cũng khuyên chạy gam với tổ hợp
3 ngón a-m-i nhưng trên nhịp đơn 4 âm hiệu một phách.
Nhược điểm của việc chạy gam là gây nhàm chán do
thiếu nhạc tính. Lại nữa để ứng dụng vào việc reo dây thì tốc độ là quan trọng.
Ngón có thể tinh tế ở tốc độ chậm, nhưng reo dây thì tốc độ thay ngón luôn cao.
Vì vậy cần tập chạy gam cho tinh xảo ở tốc độ cao. Điều này lại cần có sự tinh
xảo của bàn tay trái và sự tinh xảo trong phối hợp giữa ngón tay trái và ngón
tay phải, chúng cần được bấm và khẩy cùng lúc ở tốc độ cao, là mức độ thượng
thừa của guitar. Những khó khăn này làm người tập dễ bỏ qua việc luyện chúng,
và không bao giờ thành công trong việc chơi tremolo. Họ sẽ tránh chơi những bài
có kỹ thuật này.
Nhạc sĩ Nguyễn Quang Tri (giảng sư khoa Guitar trường
Quốc Gia Âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài Gòn) thì nhấn mạnh vào việc luyện arpège, tức
rải hợp âm, với các tổ hợp ngón khác nhau. Đây là kỹ thuật sơ đẳng, kỹ thuật
khai tâm, mà Carulli dùng làm những bài tập đầu tiên trong sách Phương Pháp Học Tây Ban Cầm của ông (Méthode Complète pour Parvenir à Pincé de la
Guitare) được nhạc sĩ Lê Thu dịch sang tiếng Việt, xuất bản năm 1971 ở Sài
Gòn.
Vấn đề không nằm ở tập cái gì, gam hay hợp âm rải,
mà là tập thế nào cho cả 2 loại. Để lấy quân bình cho 3 ngón thì vấn đề mạnh
nhẹ cần chú trọng. Và để tạo sự dễ dàng cho trình độ trung bình, không nên gây
khó khăn vì ngón tay trái (ngón bấm). Nên việc luyện hợp âm rải cho đúng cách
là phù hợp. Khi tập arpège, tay trái không hoạt động nhiều, mà âm thanh nghe
được lại thuận tai nên dễ và gây hứng thú. Đến khi ngón khẩy (tay phải) đã có
được sự chủ động mạnh nhẹ thì luyện thang dấu (gam, scales) để có được sự chính
xác lúc chơi tác phẩm, có được sự rõ ràng uyển chuyển trong giai điệu reo dây.
Luyện Hợp Âm
Rải (Arpèges, Arpeggios)
Để ý rằng các tiết tấu thông thường trong âm nhạc
thì thuộc về một trong 2 cấu trúc: nhị phân (chia đôi) và tam phân (chia ba). Các
âm hiệu (nốt) nhỏ và cùng trường độ luôn được nhóm thành từng nhóm có 2 âm hay
nhóm có 3 âm với nhau, hay bội số của chúng.
Trong cấu trúc nhị phân, cường độ của các âm cùng
trường độ và đi theo nhau luôn là Mạnh
- Nhẹ - Mạnh - Nhẹ - Mạnh... Dù cho nó thuộc về nhóm 2 hay 4
hay 6, 8 âm hiệu.
Cường độ trong cấu trúc tam phân là Mạnh - Nhẹ - Nhẹ - Mạnh - Nhẹ - Nhẹ - Mạnh...,
tức là sau 1 âm hiệu mạnh sẽ có 2 âm hiệu nhẹ. Trong cấu trúc này, các âm hiệu
giống nhau được nhóm thành nhóm 3, 6, 9, 12 âm hiệu.
[Theo
trên, nhóm 6 âm hiệu có thể được thấy trong cả 2 cấu trúc nhị hay tam phân. Nhóm
6 âm có thể là “liên sáu” gồm 3 nhóm 2 âm (sextuplets), hoặc “liên
ba đôi” gồm 2 nhóm 3 âm (double triplets). Theo
đó mà quyết định độ mạnh nhẹ cho mỗi âm. Nhưng thường người ta không chú ý đến
độ mạnh nhẹ trong các nhóm nốt ở tốc độ cao, cho nên liên 5, liên 6, liên 7...
của các âm hiệu ngắn thường được coi là một chuỗi âm mà chỉ có âm hiệu đầu tiên
là mạnh hơn các âm còn lại. (Và như vậy, liên sáu và liên ba đôi không khác
nhau.)]
Tức là ở kiểu tremolo p-a-m-i, ngón p cần phải
mạnh (nhưng không cần chú ý thì p vẫn
luôn mạnh hơn) và ngón m cũng phải
mạnh hơn ngón i và ngón a vì đây là nhóm 4 nốt nhị phân. Trong
khi, như nhạc sĩ Trần Văn Phú đã nêu, ngón i
là mạnh nhất trong 3 ngón. Và ngón a
thì vụng nên khó điều khiển mạnh nhẹ, và a
là khởi đầu của bộ 3 ngón nên thường vào dây rất mạnh. Vì a và m chung một cơ điều
khiển ở cùi chỏ nên khi khẩy ngón a,
ngón m cũng tự động khẩy theo, vì bị
động nên m yếu hơn a.
Vì thế để có được m khẩy sau a nhưng phải
mạnh hơn a và i phải giảm để nhẹ hơn m
là việc cần luyện tập nếu muốn tremolo đều tiếng. (Nữ cầm thủ Ana Vidovic đã
chọn cách giải quyết reo 4 âm bằng cách bỏ hẳn ngón a, cô diễn bằng p-m-i-m. Cách này phù hợp với tự nhiên
do những lý do đã nêu. Tuy nhiên theo cách này, tần số xuất hiện của ngón m tăng gấp đôi, rất dễ mỏi ngón.)
Bài Tập Hợp Âm
Rải
Phần luyện hợp âm rải ở đầu sách Methode... của Carruli có lẽ là đủ cho
việc luyện phân biệt mạnh nhẹ và tốc độ cho bàn tay phải. Dưới đây là vài trang
trong sách (bản Việt ngữ). Phần dấu và chữ đỏ được ghi thêm ở đây để nhắc nhở
việc phải chú ý nhấn vào các âm hiệu khi chia nhỏ phách.
Trong hình trên, bài trên (Hợp Âm Rời 3 Nốt) là để
luyện cho sự linh hoạt của ngón p. Bài dưới (Hợp Âm Rời 4 Nốt) để
luyện cho ngón m, chú ý khẩy m mạnh hơn i. Trong sách, Carruli
không nhắc về độ mạnh nhẹ này, vì mặc định người học đã biết nhạc lý. Và người
tự học sẽ không để ý, đưa đến việc giữ tiết tấu không đều hoặc không rõ ràng
như bản nhạc ghi. Và khi tập tremolo sẽ không thấy sự sai lạc của mình để sửa.

Ở cuối của phần này của sách Methode... có chi tiết quan trọng và hữu ích cho việc luyện rải hợp
âm. Tác giả yêu cầu luyện thêm 6 thế ngón của bàn tay phải (arpeggio patterns).
Vì đã giới thiệu xong các thang dấu quen thuộc của đàn guitar nên tác giả chỉ
ghi một ô nhịp trong cung thể Đô Trưởng cho mỗi khuôn mẫu cần tập. Người học sẽ
áp dụng các khuôn mẫu rải ngón này vào một trong những bài trước đó với trọn 8
ô nhịp. Và cũng nhờ phần này, người ta hiểu rằng có thể luyện các bài tập với
các cách thay đổi ngón tùy thích. Thí dụ ở bài đầu tiên, thay vì chơi p-i-m
thì có thể chơi p-m-a hay p-i-a.
Khi
chơi hợp âm rải, không thể áp dụng cách “ép dây” (rest-strokes, apoyando) mà phải “móc dây” (free-strokes, tirando).
Vì khi ép dây, ngón sẽ đè vào dây kế, làm nó ngưng rung và hợp âm không còn đầy
đặn.
Khi
khẩy, dù là móc dây hay ép, thì hai lóng
ngoài cùng của mỗi ngón đều phải thả
lỏng (ngay cả của ngón cái). Lóng sát lòng bàn tay là lóng chủ động. Nó
nhấc lên và hạ xuống, đưa ngón tay vào dây, bị dây cản nhưng nó vẫn đi xuống,
cố kéo móng tay trượt qua dây để khởi động sự rung của dây. Muốn vậy, 2 lóng
ngoài phải lỏng để có thể “nhún” (uốn ngược một chút ra sau, phía lưng bàn tay)
và trượt móng qua dây, có thể trượt qua dây theo các góc độ tùy ý, xiên phải
xiên trái hay thẳng góc với dây. Mỗi góc cho ra mỗi âm sắc khác nhau. Để ý rằng
nếu bàn tay để xiên, chĩa về phía bàn phím nhiều thì móng sẽ trượt qua dây rất
nhanh mà không bị cản trở và không cần phải nhún đầu ngón tay (tương tự việc
nghiêng cái plectrum, miếng gẩy, để chơi guitar dây sắt). Với cách để tay này,
tiếng đàn sẽ mịn màng và dịu dàng, hài hòa nhưng khó thay đổi âm lượng, không
có độ bật, thiếu đanh cứng. Sẽ tùy ta chọn lựa theo thẩm âm của riêng mình.
Để
tạo tiếng đanh và cứng trong những trường hợp đặc biệt, giữ cứng 2 lóng ngoài
và móng sẽ trượt qua dây khi dây bị kéo xa đủ. Tiếng sẽ rất mạnh và đanh. Muốn
dây không bị kéo xa tạo cường độ lớn thì khẩy với một góc xiên thật lớn với bàn
tay nghiêng. Khi này móng sẽ trượt qua dây với độ cong của đường cắt móng tay
và không có đỉnh buông dây, tiếng đàn dịu hơn. Nhưng việc để bàn tay xiên nhiều
quá sẽ đưa đến tình trạng ngón cái khẩy bên trong ngón trỏ, một nhược điểm cần
tránh. Trong cả 2 cách móc (giữ cứng hay lỏng đầu ngón), dây đàn đều giãn ra,
di chuyển, để nó cũng nhường cho móng trượt qua.
Rất
khó quan sát thấy đầu ngón tay có nhún hay không. Thực hành khẩy theo cách ép
dây để nhận ra sự khác biệt giữa việc nhún đầu ngón hay không nhún khi ép, rồi
áp dụng việc nhún đó (đôi khi chỉ cảm thấy nó nhún chứ không nhìn thấy, tùy
theo cơ thể mỗi người) vào việc móc dây khi chơi hợp âm rải.
Khi
luyện tập hợp âm rải, cần chú ý hoạt động của các ngón sao cho đúng thao tác. Phải
để lóng sát lòng bàn tay làm chủ động của cú móc, phải thấy rõ nó đưa lên hạ
xuống. Khi ngón này khẩy (hạ xuống) thì ngón kia PHẢI nhấc lên. Phải nhìn thấy
khớp xương (joint) trên ngón nhô lên hạ xuống càng xa càng tốt. Tập đến khi
hoạt động đó trở thành phản xạ, là hoạt động tự nhiên không cần tập trung điều
khiển.
Yêu
cầu chính trong việc luyện hợp âm rải này là diễn được rõ cường độ của từng âm hiệu, âm nào to hơn âm nào nhỏ hơn. Khi các
yêu cầu này được thỏa thì mới bắt đầu việc tập chơi nhanh hơn. Nếu nhanh mà xảy
ra lỗi thì phải tập chậm lại. Cho đến khi đạt tốc độ tối đa của mình.
Khi
luyện hợp âm rải đã đạt yêu cầu về độ mạnh nhẹ và tốc độ thì có thể bắt đầu
thực hành reo dây (tremolo).
Kỹ thuật rải hợp âm là cơ bản và quan trọng trong
việc chơi đàn, nên ngoài việc chạy gam khi khởi động làm ấm tay thì cũng phải
dợt hợp âm rải. Các nhạc phẩm của Bach, Prelude
I (BWV 846a) do Võ Tá Hân soạn lại,
hay Prelude (BWV 999) do Andres.
Segovia soạn lại, và đặc biệt, bài Etude
I của Heitor Villa-Lobos là rất phù hợp để khởi động buổi tập, vừa hiệu quả
mà vừa hấp dẫn. (Nếu reo dây mà thấy tiếng không đều, hay đều nhưng không thể
nhanh đủ thì hiểu rằng việc luyện hợp âm rải chưa đạt yêu cầu.)
Luyện Thang Âm (Âm Giai, Scales, Gammes)
Theo nhạc sĩ Trần Văn
Phú, luyện thang âm đồng chuyển (Chromatic Scale) là chủ đạo trong
việc tập kỹ thuật reo dây. Ông áp dụng 7 tổ hợp ngón tay phải khác nhau ghi
trong bài tập Các Thang Âm Trưởng và Thứ
(Diatonic Major and Minor Scales) của
Segovia. Đó là i-m; m-i; m-a; a-m; i-a; a-i và a-m-i-m. Thang âm đồng chuyển thì dễ
luyện hơn thang âm dị chuyển vì dễ nhớ vị trí ngón tay trái.
Hình 8 : trích bài tập Âm Giai Đồng Chuyển
trong sách của Trần Văn Phú
Nhạc sĩ Trần Văn Phú đề nghị 2 cách cho tay trái chạy thang âm đồng chuyển; còn tay phải thì áp
dụng từng loại tổ hợp ngón nói trên. Tức là 2 cách chơi các âm hiệu đi lên từng
nửa cung đến ngăn XII thì đi xuống từng nửa cung tùy theo việc chọn cho dây nào
có nhiều âm hơn.
Cách 1. Chạy hết đoạn thang âm ở
vị trí đầu đàn từ dây 6 lên dây 1, rồi chạy tiếp trên dây 1 đến ngăn đàn thứ
XII rồi chạy xuống theo cùng cách bấm lúc chạy lên.
Cách 2. Chạy trên dây 6 lên đến
ngăn XII rồi tiếp tục trên 5 dây còn lại rồi chạy xuống theo cùng vị trí bấm
cũ.
Ích lợi của 2 cách này khác nhau một chút nhưng chỉ
lợi cho tay trái. Chỉ có sự thay đổi các tổ hợp ngón tay phải mới giúp cho việc
tremolo. Nó giúp làm các ngón trở nên độc lập với nhau, không bị lôi kéo nhau
theo tật tự nhiên.
Francisco Tarrega hướng dẫn rằng khi chạy gam đồng
chuyển đi lên trên một dây (ngón bấm là 1, 2, 3, 4) thì ngón nào đã bấm sẽ
không nhấc lên cho đến khi đổi vị trí bàn tay (từ ngăn V lên ngăn IX chẳng
hạn). Lợi điểm là nhờ ngón 1 vẫn ở trên dây, nên khi đổi ngăn, nó chỉ cần lướt
đến vị trí mới, tránh hụt dây. Việc không nhấc các ngón 2, 3 lên là để tiết
kiệm năng lượng. (Nhưng thiết nghĩ ta nên để chúng tự nhiên, nếu 2 ngón này tự
động nhấc lên sau khi làm xong nhiệm vụ thì cứ để nó nhấc lên, không cần chú ý
giữ nó xuống.) Khi chạy gam xuống (4, 3, 2, 1) thì ngón 1 sẽ vuốt trên dây chạy
vào vị trí mới của nó mặc dù chưa đến lượt nó chơi mà là phiên bấm của ngón 4,
cũng để tránh hụt dây. (Thiết nghĩ, nếu như thế, ta phải chú ý để 2 ngón 1 và 4
vào đúng vị trí trong một thời điểm, và điều này là khó khăn. Chỉ tập trung cho
ngón 4 chạy về đúng vị trí đã là khó khăn rồi.)
Sharon Isbin giải quyết sự độc lập ngón bằng cách
luyện thang âm trong đó thay ngón mạnh liên tục. Bà cho tay phải khẩy dây theo
tổ hợp 3 ngón nhưng lại trên nhịp điệu 4 âm một nhịp (nhị phân). Có nghĩa mỗi
ngón khác nhau thì thay nhau nhấn một lần.
Hình 9: Mẫu để luyện ngón của Sharon Isbin
Sharon Isbin cũng chỉ ra phương pháp khác để tập reo
dây là tập trực tiếp tổ hợp ngón p-a-m-i vào bài nhạc (không cần qua
giai đoạn luyện ngón bằng arpèges hay gammes). Theo cách này, tập thật chậm bài
tremolo nhưng với ngón giữa (m) chơi theo cách ép dây còn 2 ngón
kia lại móc. Khi đã quen thì tăng tốc độ lên từ từ, mỗi lần tăng một vạch trên
máy đếm nhịp (metronome). Khi nhanh đến độ không thể ép dây được nữa thì chuyển
m
thành móc dây, nhưng vẫn giữ cho nó nhấn. Khi nhanh hơn nữa thì không nhận ra
nhấn nữa nhưng tiết tấu đúng của tremolo đã giữ được. Bà đã vận dụng kiến thức
nhị phân (một mạnh một nhẹ) để giải quyết vấn đề thụ động của ngón m
sau ngón a và sức mạnh của ngón i.
Hình 10: Nguyên văn đoạn cách tremolo với
ngón m chơi ép dây (apoyando).
Ít ai nêu ra vấn đề mà Isbin nhắc nhở. Là khi reo
dây, chỉ dùng móng chứ đừng để thịt
chạm vào dây trước móng.
Hình 11: Nguyên văn đoạn chỉ dùng móng
Để khởi động buổi tập đàn cho nhạc sinh, nhạc sĩ
Randy Pile khuyến khích chạy thang âm La Trưởng ở đầu đàn –tức là bắt đầu bằng
âm La trên dây 3 lên đến nốt La ở ngăn V dây 1– nhưng với các tiết tấu khác
nhau. Khởi đi bằng mỗi âm hiệu một bậc, thật chậm. Sau đó chia từng âm hiệu ở
mỗi bậc âm thành các phần đều nhau hoặc nhanh chậm khác nhau nhưng vẫn cùng bậc
âm đó. Hệ quả là sẽ có tốc độ rất nhanh khi di chuyển từ bậc này sang bậc khác.
Nhạc sinh có thể tùy chọn cách xếp ngón tay phải của mình.
Hình 12: Sơ lược bài luyện thang âm của Randy Pile.
Reo dây
p-a-m-i
Ở trình độ khá, có thể bắt đầu tập hay tập lại kỹ
thuật reo dây theo lời khuyên của Sharon Isbin ở trên. Nhưng với trình độ thấp
hơn, thì có thể tập reo dây theo tiến trình từ đơn giản đến phức tạp dưới đây. Tập
reo dây chậm rồi mới tập nhanh.
Áp dụng vào vài ô nhịp của một đoạn nhạc có reo dây,
chẳng hạn đoạn cuối của bài Feste Lariane
của L. Mozzani hay Recuerdos De La
Alhambra của F. Tarrega.
Bước 1: Reo 2 âm hiệu một bass một treble: Thay đổi
ngón ở bè treble.
Bước 2: Reo 2 âm hiệu có bass chập vào âm hiệu đầu, mỗi
lần mỗi tổ hợp ngón trên cả đoạn: m/p-i,
a/p-i, a/p-m, m/p-a vân vân...
Bước 3: Reo 3 âm hiệu có bass rời khỏi treble với
các tổ hợp trên nhưng có p đi trước: p-m-i, p-a-i, p-i-a, p-a-m, p-m-a vân vân.
Bước
4: Reo 3 âm hiệu có bass chập vào âm hiệu đầu: a/p-m-i. Việc chập ngón p
với ngón a giúp chúng đi với nhau dễ
dàng hơn, không bị trễ khi chơi p-a-m-i.
Bước
cuối: Chơi như ghi trong bài, tức là reo 4 âm hiệu có bass rời.
Khi
đã luyện thành thục kỹ thuật này, có thể chơi ngay bài mới mà không cần trước
đó phải tập 4 bước trên nữa. Chỉ khi lâu không reo dây và khi chơi lại thấy
không đều, không ổn, thì dợt lại mấy bước trên, tùy theo phán đoán riêng.
Chú
ý rằng ở bè giai điệu của tremolo p-a-m-i luôn bị mất 1/4 đơn vị ở đầu mỗi
khuôn mẫu (pattern), tức là nếu bốn ngón tay khẩy tuyệt đối đều thì tiếng tạo
ra vẫn bị hụt và không thể nghe thấy đều được. Có nhiều người vin vào sự không
thể tránh điều đó và cho là không cần phải luyện cho ngón đều, tremolo kiểu nào
thì cũng sẽ có sắc thái riêng của họ. Họ quên yếu tố mạnh nhẹ của các âm thanh
và chấp nhận giai điệu trở nên giống tiếng vó ngựa phi. Điều khiển mạnh nhẹ
đúng quy tắc sẽ cho người nghe cảm giác đều đặn.
Để
có được giai điệu thật đều, không có khoảng cách giữa bộ 3 âm hiệu treble, có
thể cố gắng chơi liên tục 3 ngón a, m, i theo tiết tấu của nhóm 3 nốt
liên ba móc đôi (dấu phần 16). Bass bằng ngón p xen vào giữa i và
a với giá trị cực nhỏ.
Hoặc
có thể ghi như sau:
Hoặc
chính xác hơn sẽ là:
Diễn
như thế, bè giai điệu sẽ rõ, chậm hơn (vì 3 âm hiệu chia đều trong 1 phách) so
với cách diễn 4 âm hiệu đều pami (4 âm hiệu chia đều trong 1 phách, dù có 1 âm
hiệu là âm bass).
Nhạc phẩm:
Reo
dây với tổ hợp ngón p-a-m-i rất phổ biến. Nhiều bản nhạc nổi tiếng có dùng thủ pháp
này như:
Feste
Larian, của
Luigi Mozzani (1869-1934)
Recuerdos
de la Alhambra, Sueño, Grand Jota của Francisco Tarrega (1852-1909) hay Tema y Estudio de Concerto by Thalberg, Grand Tremolo by L. Gottschalk (1829 –
1869) do Tarrega soạn lại.
Campanas
del Alba của Eduardo Sáinz de la Maza (1903-1982),
Una Limosna
por el Amor de Dios (An Alm for the Love of God), Contemplacion
(Vals et Tremelo), Hilandera, Un Sueño en
la Floresta của Agustin Barrios Mangoré (1885-1944).
Fantasia Original của
José Viñas (1823-1888)
Tổ hợp ngón a/p-m-i
cũng giúp ích nhiều cho kỹ thuật p-a-m-i.
Mandolinata của Albert Heinrich (1870-1950).
Álom (Dream) của José Viñas (1823-1888)
El Delirio của Antonio Cano (1811 – 1897)
======
Để nghe và nhận xét các lỗi reo dây thường thấy
Đúng Ký Âm:
Ba âm hiệu một phách:
Lỗi thường thấy, theo Trần Văn Phú:
Lỗi ngón p vào trễ:
Lỗi ngón a vào trễ: