(Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc, chương 13)
Xin cứu chúng tôi khỏi sự dữ[1]
N
|
ăm 1956 có một điều mà dân di cư nên nhớ. Đó
là sự ra đời của cuốn sách viết về cuộc di cư vĩ đại năm 1954-1955 được Farrar,
Straus and Giroux xuất bản tại Hoa Kỳ lần đầu tiên nhan đề Deliver Us
From Evil (xin cứu chúng tôi khỏi sự dữ). Chỉ trong 11 năm nó đã được
tái bản đến 20 lần. Bản mà chúng tôi đọc được ghi in lần thứ 21, năm 1967.
Gần 30 năm qua nó đã được in lai mấy lần nữa thì chúng tôi không rõ. Nhưng theo
Seth Jacobs, tác giả cuốn America’s Miracle Man in Vietnam,
thì số lượng ấn bản đã lên đến nhiều triệu cuốn.
Tác giả là một trung úy bác sĩ hải
quân tên là Thomas A. Dooley, sinh ngày 17-1-1928 và mất
ngày 18-1-1961, vì bị ung thư khi mới vừa tròn 34 tuổi. Sau khi ông mất, viện
thăm dò Gallup cho biết kết quả là ông đứng hàng thứ 3 trong
số những nhân vật nổi tiếng nhất thế giới, chỉ sau Tổng Thống Dwight Eisenhower và Đức Giáo Hoàng. Được tin buồn, Tổng Thống
Eisenhower đã gửi công điện cho thân mẫu người quá cố trong đó Tổng Thống tuyên
bố: “Có ít người, nếu không muốn nói là không có ai, sánh ngang hàng với Dooley
về sự biểu lộ lòng can đảm, sự hy sinh bản thân, niềm tin nơi Thượng Đế và sự
sẵn sàng phục vụ người khác.” Quốc Hội đã tặng ông huy chương Danh Dự. Tổng
Thống Kennedy vừa tuyên thệ nhậm chức tặng ông huân chương
Tự Do.
Năm
1954, ông gia nhập toán đặc nhiệm lo công tác y tế cho đồng bào di cư, hay đúng
ra chuẩn bị di cư, tại một trại ở Hải Phòng, đón tiếp đồng bào thoát
được vùng CS để vào Nam theo hiệp định Genève. Trại này có cái tên là
“Camp de la Pagode” (tạm gọi là Trại Chùa). Ông làm việc hết sức vất
vả, tận tâm, không nề hà công tác nặng nhọc khó khăn đến đâu, để chữa trị cho
dân tỵ nạn, mỗi ngày trung bình chữa cho 200 đến 300 người.
Ông
từng theo học trường đại học nổi tiếng Sorbonne của Pháp, nên “bất cứ cái gì
của Pháp tôi đều thích”. Những bệnh của đồng bào tỵ nạn mà ông phải chữa
trị ở Hải Phòng, trước khi cho họ vào Nam, gồm đủ mọi tật bịnh
trong số đó có những bệnh ông chưa từng được đọc trong sách hay nghe dạy tại
các trường.
Việc
làm của ông và cơ duyên với đồng bào di cư đã cho ông có dịp chứng kiến hay
nghe kể lại nhiều chuyện vô cùng thương tâm của đồng bào miền Bắc trong vùng bị
CS chiếm đóng, và những thủ đoạn gian xảo, tàn ác của Việt Minh Cộng Sản nhằm đàn áp đồng bào theo đạo Ki-tô,
và/hay ngăn cản đồng bào ra đi vào Nam bất chấp quy định của hiệp định Genève.
Cuốn
sách chỉ có 214 trang. Nhưng nó chứa đầy dẫy những tội ác của CS. Ở đây, chúng
tôi chỉ xin tóm dịch một vài đoạn. Riêng chương XV về các biện pháp dã man CS
dùng “cải hóa” người dân, nhất là giáo dân, thì chúng tôi trích dịch hầu hết,
để độc giả nhớ lại thời kỳ xa xưa, đã trên một nửa thế kỷ, hầu hiểu thêm những
khó khăn vô bờ bến mà chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết ngay những ngày
đầu.
Đọc
hết cuốn sách này, chúng tôi không hề thấy tác giả nhắc đến hay thuật lại lời
chứng của ai trong số hàng chục ngàn người mà ông được gặp và chữa trị nói về
những truyền đơn của Hoa Kỳ, đặc biệt là của nhóm đặc nhiệm của đại tá
Landsdale kêu gọi “đồng bào hãy rời bỏ miền Bắc, vì Chúa và Đức Mẹ đã vào Nam
rồi!”, như một số người đã loan tải vì một lý do nào đấy.
Trái
lại, tác giả đã nhắc nhiều lần đến những truyền đơn của CS tha thiết kêu gọi
đồng bào đừng nghe lời dụ dỗ của kẻ xấu mà di cư vào Nam, vì vào đến đó sẽ bị
khổ cực, đàn ông phải đi làm phu đồn điền, phụ nữ bị bán cho tư bản làm thê
thiếp, trẻ con bị Mỹ chặt tay, trẻ sơ sinh bị lính Mỹ giết “rán ăn điểm tâm”
v.v... Đọc những đoạn trích dịch dưới đây bạn đọc sẽ thấy Tổng Thống Diệm và
chính phủ của ông, cũng như những người Pháp, người Mỹ có cảm tình với nhân dân
Việt Nam đang bị ách cai trị hà khắc của Việt Cộng không cần phải kêu gào, mời gọi hay hứa hẹn
gì, mà người ra đi cũng nườm nượp đến nỗi các phương tiện chuyên chở cùng các
biện pháp cứu trợ không thể nào đáp ứng kịp. Hãy cứ tưởng tượng gần một triệu
người thuộc đủ thành phần xã hội, mà đại đa số là nghèo đói, bịnh tật tuốn vào
miền Nam chỉ trong vòng 300 ngày đòi hỏi biết bao công sức để tiếp đón, vận
chuyển và cung cấp thuốc men, nhà ở, phương tiện sinh sống v.v...
Nguyên
do không phải sự đe dọa hay hứa hẹn hoặc tuyên truyền bằng mánh lới như nhiều
người bịa đặt hay tưởng tượng ra mà chính là vì sự đàn áp dã man, sự tra tấn
man rợ chưa từng thấy của VMCS đối với những người theo đạo đủ làm cho người
dân nô nức ra đi để tránh tai nạn, và được tự do thờ Chúa.
Ngày
nay, đã hơn nửa thế kỷ sau, giữa lúc Hà Nội đang cần chứng tỏ với thế giới là họ tôn trọng
nhân quyền hòng được sớm vào WTO mà ta còn thấy công an đàn áp, tra tấn, đánh
đập các đạo hữu Hòa Hảo, Tin Lành, điển hình là vụ bạo hành
mục sư Chính tại Cao
Nguyên. Còn vào thời điểm đó, Bắc Việt còn bị bưng bít hoàn toàn với thế giới bên
ngoài, và liền sau chiến thắng Điện Biên, họ được toàn quyền làm chủ
một nửa nước. Vì vậy những chuyện kể trong tác phẩm của Dooley rất đáng tin.
Ngay
ở phần đầu sách tác giả đã cho biết về chuyến tầu đầu tiên đến Sài Gòn:
“Thuyền
trưởng Cox chính thức báo cáo: Tầu chở 2061 người. Có hai
người chết trên tầu và hai cuộc thủy táng. Bác sĩ Dooley chủ trì 4 ca đỡ đẻ trên tầu. Tất cả mẹ tròn
con vuông. Một cháu bé đã mang tên chiếc tầu với mình suốt đời, do cha mẹ cháu
nghĩ ra một cách đầy mơ mộng: TRỊNH VĂN AKA MONTAGUE 98 NGHIÊM.”
Về sinh hoạt của Trại Chùa, ông viết:
“Trại
tỵ nạn đầu tiên của chúng tôi trở thành trung tâm thu hút nhiều khách quý: Đô
đốc Sabin và thiếu tướng (hải quân) Walter Winn, người thay đô đốc Sabin trong chức vụ
tư lệnh lực lượng đặc trách; tướng J. Lawton Collins, nguyên tham mưu trưởng Lục
Quân Hoa Kỳ, đại diện cá nhân Tổng Thống để giải quyết các khó khăn rắc rối tại
Việt Nam; tướng O’Daniel, tục gọi “Mike, người sắt thép”, trưởng toán cố vấn
và viện trợ quân sự ở Sài Gòn, và nhiều nhân viên chữa
lửa khác thường tới thăm cái trại bùn lầy nước đọng này.
“Vị
thống đốc người Việt của vùng đất nhỏ bé của chúng tôi là một nhà ái quốc tên
là Nguyễn Luật. Ông đã thụ huấn ở
Pháp, và đã chọn trở về quê hương VN. Trước cuộc chiến ông từng là chủ bút một
tờ nhât báo ở Hà Nội. Trong chiến tranh ông đã
chiến đấu với người Pháp với cương vị một sĩ quan. Gần như tuần nào ông cũng
tới trại nói chuyện với dân và nâng cao tinh thần của họ.
“Thị
trưởng thành phố Hải Phòng là Mai Văn Bột năng tới trại. Ông là con người giản dị và tốt
lành, người Mỹ nào biết ông đều yêu mến.
“Những kẻ đến viếng trại mà không được yêu mến chính là
những tên tay sai của Việt Minh CS. Ngày nào chúng cũng tới. Thấy chúng dân tỵ
nạn liền chỉ tay nghi ngờ. Họ bảo chúng tôi: “Trong trại Chùa, lều số 5B có một kẻ nói rằng chúng tôi đến đây là
một lầm lỗi to. Nó bảo chúng tôi phải quay về ngay lập tức để chiến đấu cho
những nhà ái quốc chân chính, tức Việt Minh. Kẻ đó lạ lắm.”
“Cảnh
sát cứ vài ngày lại bắt gặp những kẻ lạ đó ở trong trại.
“...
“Sau
vài tuần sau ngày dựng lều, Trại Chùa đã bắt đầu sinh hoạt đều đặn và trở thành một
cộng đồng riêng. Chúng tôi đã có danh xưng riêng; có một cơ quan quản trị
riêng, chúng tôi có bệnh viện riêng, với những y tá quân y và cả những cô y tá
răng đen nhai trầu nữa. Và chúng tôi cũng có những cửa hàng bán hàng xén. Khẩu
phần ăn hàng ngày là 600 gram gạo, cân đo tỉ mỉ, vài con cá và khi có thể thì
cũng có một món đặc biệt thêm vào.
“Tôi
quên không nói đến nhà thờ... Mỗi buổi sáng sớm đều có lễ cho trên 10 ngàn
người dự. Tôi chắc chắn Chúa nghe lời họ cầu nguyện. Họ không xin Chúa ban ơn
gì. Họ không hỏi Chúa sẽ đưa con cái họ tới đâu. Nhưng họ cám ơn Chúa qua những
lời kinh và tiếng hát mạnh mẽ. Cám ơn Chúa đã cho họ tự do.”
Đầu chương IX tác giả cho biết:
“Tại
lều vải bệnh xá trong trại Chùa, hàng ngày tôi phải chữa từ 300 đến 400 bệnh nhân
trong tình trạng khẩn cấp với nhu cầu tuyệt đối. Không chữa được thì để họ chết
dần, hay trả họ về nguyên quán với Việt Minh sao?”
Về
một ca bệnh đậu mùa. Dooley nói với ông đại úy bác sĩ “thủ trưởng”:
“Thưa
bác sĩ, chúng ta phải cố làm gì cho những bệnh nhân này chứ? Luật là luật.
Nhưng chúng ta không thể trả người đàn bà này và đứa trẻ lại cho cộng sản, chỉ
vì lẽ đứa trẻ bị bệnh đậu mùa. Chúng ta phải trị khỏi bệnh cho đứa bé để gia
đình nó được lên tầu.”
Chương X nói về uy lực của
tuyên truyền CS như sau:
“Cộng
sản không ngừng nhồi nhét vào đầu người dân những chuyện về người Pháp và người
Mỹ thường bắt cóc người dân Bắc Kỳ. Cộng Sản bịa ra những chuyện như thế hết
giờ này qua giờ khác, hết tháng này qua tháng khác. Tất cả thanh niên nam nữ
đều phải bắt buộc dự những lớp học tập cải tạo mỗi buổi sáng. Nơi đây những
viên chính ủy nhắc đi nhắc lại những chuyện về sự độc ác dã man của người Mỹ.
“Đối
với dân quê chất phác, chuyện nghe ra hợp lý, có thể tin. Người Mỹ được biết
như là giống người bị ám ảnh bởi vệ sinh sạch sẽ quá đáng. Vì vậy có lẽ họ sẽ
chặt tay những kẻ nào thổ mửa trên tầu của họ, v.v...”
“...
Nhiều dân ty nạn không ngừng sợ sệt người Mỹ làm hại mình, nhất là khi vào khám
bệnh hay chữa bệnh trong lều bệnh xá. Đến nỗi tác giả phải đưa ra trị hay khám
bên ngoài lều cho mọi người trông thấy mà quan sát và thấy rằng ông không làm
hại ai. Trái lại những mũi thuốc trụ sinh hay kháng sinh chích vào rất công
hiệu và bệnh mau lành, như vậy mới làm cho dân hết sợ. Nhưng lại có những cái
sợ khác như khi tầu há mồm đến đón, dân không dám lên, vì sợ bị nuốt mất. Đến
nỗi phải có một linh mục leo lên trước rồi vác loa giải thích kêu gọi dân mới
dám leo lên theo...”
Một
mục trong chương trình văn nghệ của đài Hà Nội mang tên là “Đây là một người Mỹ” mà tác giả
nghe được có đoạn như sau:
“Đầu
nó là một cái lô-cốt. Râu nó là dây kẽm gai. Mắt nó là hai quả bom. Răng nó là
những viên đạn đum-đum. Cánh tay nó là 2 khẩu súng và mũi nó thở ra lửa. Nó hút
máu trẻ con như ma cà rồng. Trán nó là ổ súng đại bác và thân thể nó là sân
bay. Ngón tay nó là những lưỡi lê, và bàn chân nó là 2 xe tăng. Nó nhe răng đe
dọa, nhưng trong cái mồm xấu xí của nó nó chỉ có thể nhai sắt vụn, bởi vì nó bị
lực lượng oai hùng của nhân dân ta chống đối mãnh liệt. Như thế đủ biết bọn Mỹ
chỉ là tên khổng lồ bằng giấy”.
“Tuyên
truyền của Việt Minh bắt đầu ảnh hưởng cả đến (ICC) ủy hội Quốc Tế Giám Sát
Đình Chiến gồm người Ba Lan, Ấn Độ và Gia Nã Đại, do hiệp ước Genève quy định. Người của ủy hội hay tới trại của
chúng tôi để điều tra về những điều CS cáo buộc rằng người Mỹ làm điều nọ, điều
kia có hại cho dân tỵ nạn. Có lần họ điều tra về cáo buộc người Mỹ bỏ thuốc độc
vào nước uống. Lần khác về chuyện bịa đặt là chúng tôi xịt vào người dân thứ
bột thuốc làm họ không thể có con. Trong khi thực ra là chúng tôi có xịt vào họ
thứ thuốc sát trùng DDT để làm cho những con chấy con rận không sinh sôi nảy nở
được đó mà.
“Và
đây là sự bịa đặt của Thông Tấn Xã Hà Nội phát thanh ngày 27-11-1954:
“Lực
lượng Liên Hiệp Pháp và tay sai đế quốc Mỹ đã bằng mọi cách đi lùng bắt và bắt
cóc xung quanh Hải Phòng, ép buộc dân phải di tản
vào Nam. Lúc 9 giờ tối qua, chúng động viên cảnh sát đến bao vây phố Du Hang
(?) và bắt đem đi 50 thanh niên. Chúng tuyên bố một cách vô liêm sỉ rằng những
thanh niên này phải đăng ký vào lính, bằng không sẽ phải đưa vào làm lao công ở
các đồn điền cao su miền Nam.
“Trong
5 ngày bọn tay sai đế quốc đã bắt giữ 117 tài xế xích lô và đưa vào Nam. Theo
thống kê chưa đầy đủ, 551 người ở Hải Phòng đã bị bắt trong 21 cuộc ruồng bố trong một
tháng.
“Tại
tỉnh Kiến An cũng có 3 cuộc bố ráp trong cùng thời gian và
99 người đã bị bắt giữ, trong khi tại Quảng Yên nhiều người khác cũng là nạn
nhân của những hành động tương tự...”
Và
sau đây là kết quả của những luận điệu tuyên truyền của CS đối với dân tỵ nạn:
“Trong
toán di dân đầu tiên tới trại có mấy trẻ con. Khi chúng đến bên Ed, anh này bèn
xịt thuốc DDT vào chúng. Người mẹ liền dùng đòn gánh tấn công Ed túi bụi. Vì bà
ta đã từng nghe nói người Mỹ độc ác, dã man. Tôi bật cười rũ rượi, đến không
còn nhớ chuyện gì xảy ra sau đó. Nhưng tôi nghĩ lại, sau khi bị một hay hai
đòn, Ed đã khóa tay được người đàn bà, và ông trưởng trại và thuộc hạ đã ngăn
được trận ẩu đả. Rồi thì Ed quay lại xịt thuốc DDT vào các y tá của anh ta để
chứng tỏ cho người đàn bà thấy rõ thứ bột trắng này không làm hại ai.
“Chính
tôi cũng nhiều lần bị đánh, và không phải chỉ bị đánh nhẹ đâu.
“Một
ngày kia một bà bồng đến cho tôi chữa một đứa bé sơ sinh mình mẩy đầy ung nhọt.
Penicilline là thứ thuốc thần chống những ung nhọt và mụn ghẻ. Chuyện đó là
thường. Tôi chích cho đứa hài nhi một mũi vào mông và bảo ngày mai mang cháu
lại.
“Nhưng
chỉ vài giờ sau tôi nghe có tiếng la hét chửi rủa và thấy người đàn bà giơ cao
đứa con cho mọi người thấy. Rõ ràng đây là bằng chứng tôi là một con quái vật
Mỹ. Đứa trẻ đã bị phản ứng của thuốc, coi thật dữ tợn tuy vô hại. Người đàn bà
điên cuồng không chịu nghe bất cứ lời giải thích nào. Bà ta đưa con cho người
đứng bên rồi giật lấy cái gậy to tướng và gọi cả tá “cảm tình viên” tới. Khi
Baker, cuối cùng giải cứu được tôi thì tôi đã bị gẫy mấy cái xương sườn, mắt
bầm tím và nhiều vết bầm ở những nơi khác trong thân thể.
“Hôm
sau, toàn trại đứng xem tôi đơn thương độc mã, tay không vũ khí dẫn thân tới
lều của người đàn bà. Như tôi đã tiên liệu, những vết tổ ong trên thân thể đứa
bé đã biến mất, và những ung nhọt kinh tởm hôm trước đã lành. Người đàn bà òa
khóc quì xuống ôm chân tôi để xin tha thứ. Bà ta ở lại trại liền mấy tuần để
cùng với một số người khác phục dịch công tác y tế, lúc nào cũng nôn nóng muốn
khoe đưa con sạch sẽ lành lặn của mình. Ảnh hưởng tốt đối với dân di cư là phần
thưởng cho tôi bù lại những cái xương sườn bị gẫy...”
Câu chuyện của làng Cửa Lò (chương XI)
Hải quân Pháp luôn luôn trong tình trạng báo động
theo dõi các thuyền bè chở người tỵ nạn trong vùng tự do. Họ có tầu tuần tiễu
và thủy phi cơ liên tục tìm kiếm những thuyền bè nào xem ra có vẻ muốn tìm nơi
trú ẩn.
Trong
những tháng đầu người tỵ nạn thường đi thuyền trôi theo các nhánh sông vào cảng
Hải Phòng. Nhưng khi sự tuần tiễu kiểm soát của Việt Minh thắt chặt lại thì điều đó không thể thực hiện
được nữa. Thế là những người can đảm hơn dùng những thuyền bè nhỏ bé không
thích hợp cho những chuyên đi biển để liều giăng buồn nhắm tới Hải Phòng.
Thuyền
trưởng Gerald Cauvin của hải quân Pháp đặc trách công tác đặc biệt
này, và thông báo cho chúng tôi biết hoạt động của ông. Điều này giúp chúng tôi
rất nhiều vì nó cho tôi biết trước những gì đang chờ chúng tôi.
Một
buổi sáng sớm, Cauvin sai một người tới trại của chúng tôi để chở
tôi ra bến tầu của hải quân Pháp. Ông bảo mới nhận một tin vô tuyến cho biết có
14 chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi vịnh Hạ Long.
Ông
đã phái một chiếc tầu Pháp, chiêc LSM, tới đón đoàn thuyền đó để đưa vào Hải
Phòng. Tôi báo động cho trại biết phải sẵn sàng đón nhận
khoảng 500 người rất ốm yếu (thực ra là trên 1100 người). Rồi đại tá Cauvin và tôi lên tầu LSM đi 4 giờ trên sông tới
vịnh. Chiếc thủy phi cơ tìm ra đoàn người tỵ nạn đã trở về Hải Phòng.
Chúng
tôi tới vịnh khoảng trưa. Hoàn toàn yên lặng.
Đoàn
thuyền nối đuôi nhau, chiếc nọ sau chiếc kia, đã vào vịnh rồi. Nhiều chiếc tụm
vào nhau, hay đầu chiếc này được cột chặt vào đuôi chiếc kia. Khi tới gần,
chúng tôi dùng ống nhòm quan sát. Ánh nắng rực rỡ trên mặt nước xanh trong,
phong cảnh như trong truyện thần tiên. Nhưng những gì chúng tôi thấy chẳng có
gì đẹp như truyện.
Chen
chúc như cá trong hộp, trên 14 chiếc thuyền, bè mỏng manh là hơn một ngàn dân
tỵ nạn. Họ đã vượt 200 dặm biển Nam Hải dậy sóng một cách không thể nào tin
được. Họ đã dùng những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé (nối đuôi nhau, có nhiều
chiếc cột lại với nhau, đầu chiếc này gắn vào đuôi chiếc kia), bất chấp mọi
hiểm nguy, và đã thực hiện điều hầu như bất khả thi. Mặc dầu lúc ấy trời nắng
ấm, mà tất cả đều ướt sũng và lạnh cóng. Biển cả đã làm họ kiệt quệ vì say
sóng. Họ đã thổ mửa tới mật xanh mật vàng. Ngay từ xa bạn cũng có thể thấy họ
bị lạnh buốt đến xương tủy. Có những người đi đi lại lại để giúp đỡ nhau chống
chọi với đau ốm. Nhưng nhìn vào toàn cảnh thì đó là một khối bất động, nằm la
liệt trên sàn thuyền.
Dường
như đoàn người đó đang chuyển động trong một cuốn phim quay chậm. Luôn luôn bị
ướt sũng vì nước mặn suốt cả ngày, da họ bị khô và ánh nắng gắt đã làm nó nứt
ra. Luôn luôn bị ngâm trong nước mặn, bàn chân và mắt cá chân của họ sưng húp
lên. Chúng tôi có thể cảm thấy nổi khốn khổ của họ ngay cả trước khi đụng vào
người họ.
Khi
chiếc LSM của chúng tôi tới gần đủ để họ nhận ra lá cờ Pháp ở mũi tầu thì một
điều ấm lòng xảy ra. Biết rằng chúng tôi là bạn chứ không phải là thù, họ bèn
kéo một tấm vải ướt sũng mà họ đã giấu kỹ nhiều năm lên đỉnh cột buồm cao nhất.
Đó lá cờ của giáo hội Công Giáo.
Khi
chúng tôi tới sát bên họ, những bàn tay người Pháp giơ ra và thò xuống để giúp
đưa họ lên tầu. Hầu hết họ đều lên tầu của chúng tôi. Chỉ một số người còn
tương đối khỏe mạnh ở lại trên vài chiếc thuyền bé nhỏ của họ đã được cột sát
vào hông tầu LSM để cùng vào Hải Phòng.
Chúng
tôi cho họ dùng trà, nước và bánh ngọt Pháp. Tuy không đủ, nhưng cũng giúp phần
nào. Chiếc LSM nhỏ bé với vài chục thủy thủ không mang theo nhiều đồ ăn. Phải
chi tôi biết nghĩ trước là nên mang theo một trăm bì cơm thì hay biết mấy.
Cauvin và tôi thấy mấy người lớn tuổi có vẻ là những
thủ lãnh trong đoàn người này. Tôi đưa họ vào phòng và hỏi: “Các ông từ đâu
tới? Cuộc sống trong làng các ông ra sao? Tại sao các ông tới đây? Các ông là
ai?”
Họ
kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của họ với giọng buồn rầu thận trọng, dè dặt,
như thể họ đã kể chuyện đó cả ngàn lần rồi. Bằng một thứ tiếng Pháp khá chuẩn,
nhưng giọng nói đều đều buồn chán, họ cho chúng tôi biết về cuộc đời họ. Hai
chúng tôi chăm chú nghe trong 3 giờ đồng hồ.
Câu
chuyện chẳng có gì đặc biệt mới. Chúng tôi đã từng nghe những người trốn thoát
khác nói rồi. Nhưng ở đây có một sự cay đắng làm cho người nghe thương cảm khác
thường. Cuộc vượt thoát của họ được hoạch định và thực hiện mà hoàn toàn không
có một sự trợ giúp nào từ bên ngoài. Duy nhất chỉ có hai lợi khí cổ điển: niềm
tin và hy vọng.
Dù
rằng giờ này đây (1956, MV) tôi ở cách xa hàng ngàn dặm, và đã xa cách hàng
ngàn giờ, tôi vẫn còn nhớ một cách sống động từng lời nói của họ. Mấy ông già
với bộ mặt nhăn nhó, phờ phạc ngồi đối diện hai chúng tôi, uống trà đậm, rồi
lưỡng lự nói nhỏ nhẹ:
“Làng
chúng tôi tên là làng Cửa Lò. Khoảng 300 cây số về phía
nam, ở bờ biển. Những năm trước đây là một ngôi làng hạnh phúc. Đất bằng phẳng
chia làm vô số mảnh ruộng lúa xanh tươi. Trong mùa mưa gió, những đám mây trôi
nhanh trên bầu trời u ám. Đến mùa nắng ấm mặt trời sáng rực trên bầu trời xanh
dương. Các ông có thể thấy dân làng chúng tôi làm việc suốt ngày ở ngoài đồng,
tát nước vào ruộng, hay cầy bừa trên những bãi bùn lầy, theo sau những con trâu
giẫm bước kêu ì ọp.
“Ai
không làm ruộng thì đánh cá. Những chiếc thuyền đưa tới đây là của dân đánh cá
đó. Những chiếc thuyền này khá vững chãi, có 2 cột buồm và những cánh buồm màu.
Nhưng chúng được đóng thô sơ mà không nhắm chịu đựng được sóng gió của biển
khơi.
“Kẻ
thù bắt đầu cai trị chúng tôi từ 1951. Họ áp dụng luật lệ mới. Họ viết lịch sử
mới. Và áp đặt một lối sống mới, lối sống cộng sản. Nhưng cộng sản lại nói đó
là chủ nghĩa ái quốc Việt Minh. Bây giờ có hòa bình nhưng
là thứ hòa bình buồn tẻ, không vững chắc. Ngay cả chúng tôi là những viên chức
chế độ cũ, thường được coi như có hiểu biết củng thấy thật khó hiểu.
“Ngày
nay bất cứ cái gì liên quan đến người Pháp trước kia đều bị hoen ố. Trước mắt
những sử gia mới tất cả những gì người da trắng làm đều là xấu xa. Cả những
điều tốt lành họ đã làm đều là xấu tất, vì đã được làm vì lòng ích kỷ bẩn thỉu.
“Quả
thật người Pháp đã đưa vào Việt Nam khoa học về y tế, và mở những chiến dịch
chống bệnh truyền nhiễm. Nhưng VC bảo Pháp đã làm điều ấy để có được những phu
khoẻ mạnh và những tên nô lệ tráng kiện.
“Lối
sống mới của chúng tôi được coi như là ảo tưởng. Nhưng chẳng bao lâu sẽ thấy,
người ta ngụ ý rằng thế hệ hiện nay luôn luôn phải bị hy sinh một cách không
thương xót cho thế hệ sau được hạnh phúc.
“Cuộc
Cải Cách Ruộng Đất mới đây chỉ tạo ra nạn đói. Mọi người trong
chúng tôi chẳng có gì bỏ bụng. Cái chủ nghĩa duy vật của CS đã thành con yêu
tinh mút hết màu mỡ đất đai của chúng tôi. Thoạt tiên chủ nghĩa yêu nước của
Việt Minh đạt được dường như có vẻ phù hợp với công lý
đích thực. Nhưng rồi sau đó trở thành một thứ bố láo thực thụ. Khoa xã hội học
mới đã dẫn tới sự tố giác lẫn nhau trong gia đình, tự phê tự kiểm và sự nghi kỵ.
Dân làng chúng tôi đã bị hy sinh một cách tàn nhẫn cho ý tưởng lợi ích kinh tế.
Chưa từng bao giờ có sự độc ác có hệ thống và tổ chức như vậy.
“Tất
cả chúng tôi cùng có một ý nghĩ – bỏ trốn – thế là chuẩn bị mấy tuần lễ. Ngày
nào chúng tôi cũng giấu những nắm cơm nhỏ. Không nói cho ai biết về ý định trốn
thoát. Làm gì cũng phải giấu giấu giếm giếm. Viên chủ tịch xã trước kia là
người phe chúng tôi, nhưng nay ông ta là cán bộ Việt Minh, và đã trở nên độc ác vì
niềm tin mới của ông ta. Ở đâu ông ta cũng có chân tay nằm sẵn, tại khu chợ,
tại mỗi căn lều.
“Chúng
tôi làm kế hoạch, nhưng không dám họp nhau. Theo luật lệ mới, không được hội
họp trên 4 người. Chúng tôi chuyền khẩu cho nhau khi cúi lưng trên đồng ruộng,
hay khi dân chài chúng tôi đổ cá lên bờ, hay khi đám phụ nữ đi chợ.
“Cuối
cùng các kế hoạch và lời cầu nguyện đạt đến đỉnh cao. Đêm đó đã đến. Trời không
trăng, tối như mực. Biển lặng. Từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, chúng tôi chuồn
lén xuống thuyền từng người một, hay từng 2 người. Trong khi đó thì một anh
chàng tên là Mai Văn Thinh, la hét và hát cao giọng
làm náo động ở cuối làng. Sự ồn ào kéo chú ý của cảnh sát và cán bộ và binh
lính VC. Họ kéo nhau đến xem chuyện gì xảy ra. Trong khi đó thì chúng tôi tiếp
tục lên thuyền.
“Những
chiếc thuyền này được đóng để chỉ chở được 25 người thôi. Đêm ấy mỗi chiếc chở
gần 100. Lẳng lặng như đêm khuya thinh lặng, chúng tôi nhẹ nhàng chèo thuyền ra
khơi của biển Đông.
“Vâng,
chúng tôi đã thành công trong việc rời làng. Nhưng chúng tôi không hoàn toàn
vui, vì cứ mải nghĩ đến anh chàng Mai. Chẳng bao lâu bọn họ sẽ biết anh ta đóng
vai trò gì trong cuộc vượt thoát của chúng tôi. Lúc ấy số phận anh ta sẽ ra
sao?
“Cha
mẹ Mai đều bị giết trong chiến tranh, rồi năm 1953, người em độc nhất của anh
ta tên Châm đã bị thiêu sống, vì là thủ lãnh phong trào thanh niên Công Giáo.
Chiều ngày 16-1-1953 Châm bị trói vào một gốc cây, bị đánh dã man bằng gậy tre
già. Rồi cái thân sũng máu của anh bị tưới xăng, châm lửa đốt cháy cho đến chết.
“Vừa
dùng chèo, vừa dùng buồm, chúng tôi ra khơi thật nhanh hết sức mình có thể
được, nóng lòng vượt hết 3 dặm giới hạn để vào hải phận quốc tế, là an toàn.
Khoảng hửng sáng thì chúng tôi không còn thấy bờ nữa, và cảm thấy đã tương đối
an toàn. Nghĩa là chúng tôi đã thoát được một mối nguy. Bây giờ phải chiến đấu
với biển cả, một mối nguy khác.
“Chúng
tôi muốn đi về hướng Bắc. Nhưng không có địa bàn, và cũng chẳng có bao nhiêu
kiến thức về hải hành. Tuy nhiên chúng tôi cố để mặt trời ở bên phải và hướng
về Hải Phòng. Chúng tôi được biết tại đây người Pháp và người Mỹ
sẽ sẵn sàng vớt chúng tôi. Rồi họ sẽ đưa chúng tôi vào Sài Gòn.
“Chuyến
đi của chúng tôi dài 5 ngày 5 đêm. Chúng tôi không có lửa vì củi trên thuyền
quá ướt. Chúng tôi ăn cơm đẫm nước. Trà thì pha nước mặn và càng làm cho chúng
tôi bệnh hơn. Chúng tôi có quá ít nước uống, đúng ra là chẳng có nước. Mỗi đợt
sóng lớn lại làm sàn thuyền ngập tràn nước biển. Thật là cực khổ. Sáng sớm hôm
nay chúng tôi tới được chốn lạ lùng này, và đoán mình đã vào được vịnh Hạ Long. Khi thấy chiếc thủy phi cơ
của các ông, thì chúng tôi hoàn toàn chắc chắn. Và bây giờ chúng tôi đã được tự
do...”
Mấy
người thủ lãnh dân làng kể chuyện này một cách bình tĩnh, nhẹ nhàng. Vừa sợ hãi
vừa thán phục, chúng tôi chăm chú nghe câu chuyện về sự dũng cảm và niềm hy
vọng cao cả của họ.
Rồi
bỗng tiếng hát vang từ bên ngoài sân tầu vọng vào. Chúng tôi bước ra để nghe
những lời thánh ca diu dàng của đám đông tỵ nạn. Chúng tôi nghe tiếng được
tiếng mất. Mấy thủ lãnh ngân nga theo bài hát rồi dịch ra tiếng Pháp cho chúng
tôi.
Dân
làng đang hát lời cảm tạ Thượng Đế đã cứu giúp họ trong cơn nguy nan trong cuộc
đời của họ:
“Chúa
ôi, chúng con kính yêu vẻ đẹp huy hoàng của nhà Chúa, và nơi mà sự vinh quang
Chúa hằng ngự trị. Xin cho chúng con được sống những ngày bình an với Chúa.”
Ngày Lễ Các Thánh dài nhất của Phát Diệm (chương XII)
Ủy hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (CIC) do Hiệp Định Genève thành lập thường có nhiều toán quan sát đặt
tại Sài Gòn, Hà Nội, Vientiane (thủ đô Ai Lao) và Phnom-Penh (thủ đô Cam Bốt) và một số thành phố lớn ở
Đông Dương. Ngoài ra còn có nhiều toán lưu động đi đến những
nơi có khiếu nại tranh chấp về việc thi hành hiệp định...
Theo
nguyên tắc, ai cũng có quyền tìm gặp thành viên của Ủy Hội bất cứ lúc nào. Vậy
ai có khiếu nại gì chống một bên trong hai bên, đều có thể trình bày trước mặt
đại diện của UH (Ủy Hội Quốc Tế, CIC). Nhưng UH đã không giúp được gì mấy trong
vấn đề quyền di cư của người tỵ nạn.
Thực
ra UH cũng muốn giúp và ngay cả VM cũng không muốn bị UH báo cáo là vi phạm
hiệp định.
Nhưng
UH chỉ có thể tìm ra sự việc và báo cáo. Họ không có quyền lực gì để bắt buộc
VM phải cho người tỵ nạn ra đi.
Nếu
UH đến thăm một làng nào đó, họ có thể đặt một cái bàn hội nghị tại một công
viên (hay đình làng) chẳng hạn và cho loan báo là ai muốn nói gì với UH thì cứ
đến. Nhưng ngay ở bên ngoài công viên đó, VM có thể đặt những chướng ngại cấm
người làng lai vãng công viên. Họ viện cớ bảo vệ an ninh cho các đại diện của
UH. Vì vậy các đại diện của UH chỉ có thể nhận được khiếu nại và tin tức khác
từ một số rất ít người trong một vùng đất rất nhỏ.
Và
những ai dám khiếu nại luôn luôn sợ bị trả thù và thường bị trả thù thật. Đại
diện UH có thể đặt một chiếc xe lớn bên cạnh bàn hội nghị, và sau khi nghe lời
khiếu nại sẽ bỏ phiếu cho phép người dân ra đi và thông báo cho xã trưởng VM.
Nhưng như vậy không đủ. Phải làm sao người ra đi leo được lên xe và được chở đi
khỏi làng thì mới thành công. Nhưng UH không có phương tiện chuyên chở hữu hiệu
đó.
Trong
nội bộ UH, còn có những vấn đề thường gặp phải mỗi khi một cơ quan hỗn hợp nào
có thành phần CS trong đó. Đại diện Ba Lan (CS) xem ra cương quyết gây trở ngại. Và chính
tôi nhiều lần đã chứng kiến những hành động cản trở của họ.
Tôi
đưa một người tỵ nạn đến UH. Người này đã bị VM đánh đập tàn tệ. Có một cuộc
họp của hội đồng đại diện UH. Người tỵ nạn kể chuyện mình bị đánh. Sau nhiều
giờ tranh luận, người này bị trả về trại. Xem ra lúc nào đại diện Ba Lan cũng đòi phải đưa bằng chứng là điều đã rõ
không thể nào làm được. Vết thương là bằng chứng có bị đánh. Nhưng làm sao
chứng minh được những vết thương đó là do VM gây nên?
(...)
Nhiều
người trong số dân tỵ nạn cho tôi biết là có hàng ngàn người ở Phát Diệm và xung quanh đó muốn trốn vào Nam, mà không
đi được. Chúng tôi bàn với Cauvin rồi chọn mấy người khỏe mạnh nhất và can đảm
nhất, cả đàn ông lẫn đàn bà, gây cảm tình, tạo lòng tin rồi cho họ biết kế
hoạch của chúng tôi và phần vụ của mỗi người trong đó. Họ rời Hải Phòng quay trở lại bên kia bức màn tre.
Những
người đó loan tin rỉ tai cho người trong vùng biết rằng nếu họ muốn đi Nam thì
hãy tập trung tại nhà thờ Phát Diệm vào dịp Lễ Các Thánh đầu tháng 11. “Ở đó sẽ có
đại diện của UH đến gặp các bạn và nghe các bạn trình bày và sẽ cho các bạn đi
tìm tự do.
Lúc
ấy VM chưa đóng cửa nhà thờ Phát Diệm. Giáo dân có quyền công
khai tới đó dự Lễ Các Thánh là lễ buộc theo Giáo Luật. Và họ tới rất đông, đứng
chật nhà thờ và ra cả ngoài sân. Cùng lúc đó tại Hải Phòng và nhiều nơi khác có một chiến dịch rộng rãi
nhằm thuyết phục UH quốc tế nên tới Phát Diệm để điều tra về những khiếu nại là
có sự cấm đoán di cư. Đô Đốc Querville (Pháp), Đại
Tướng O’Daniel (Mỹ) ở Sài Gòn, Đô Đốc Sabin từ soái hạm
ngoài khơi, Thị Trưởng Mai Văn Bột của Hải Phòng, và nhiều người khác đều gửi thư
và điện tín đến trưởng toán lưu động đặc biệt của UH.
Nhưng
có cái gì đó không ổn. Tôi không rõ tại sao, họ chẳng bao giờ giải thích. Thành
viên của toán lưu động đã không tới Phát Diệm ngày mồng một, ngày mồng hai, rồi ngày mồng ba
cũng không.
Tin
bí mật chuyền cho dân trong nhà thờ cứ ở lại đó chờ đợi kiên nhẫn. Đô Đốc sẵn
sàng để toán lưu động UH xử dụng máy bay của ông, mặc dù họ đã có hai máy bay
trực thăng. Thêm nhiều thư tín thúc dục họ nên đi Phát Diệm. Nhưng họ vẫn trì hoãn.
Tại
Phát Diệm thì Việt Minh đâm nghi: Tại sao lễ các thánh một ngày lại
kéo dài thành 3 ngày? Họ ra lệnh mọi người phải về nhà. Nhưng dân không về. VM
đặt lính gác xung quanh sân nhà thờ, cấm chỉ không ai được bán hay cho thực
phẩm cho những người ở bên trong. “Hãy để chúng cứ đọc kinh, nhưng không cho
ăn, hay uống”. Đó là lệnh.
Để
đói là vũ khí chiến tranh đã có từ thời đoàn lê-dương Carthage, và chắc hẳn từ
xa xăm trước nữa. Nó đã được VM đem dùng một cách tàn nhẫn vào năm 1954.
Tuy
nhiên dân vẫn không về. Chỉ có mấy người yếu quá về. Tất cả những người khác
vẫn kiên nhẫn chờ phái đoàn của UH, vì họ tin những lời đã nói cho họ biết như
thế. Sự chạy đua kiên nhẫn không bền. Nhiều người yếu chịu đựng đã mang nhiều
thứ bệnh khác nhau. Nhưng dầu sao lòng tin của họ vào giấc mơ Tự Do cũng mạnh
đủ để cho họ lương thực (thiêng liêng) mà họ cần trong thời gian căng thẳng
này.
Những
ngày cứ kéo dài ra. Bốn thành năm, năm thành sáu, rồi thành bảy. Trẻ con đói la
khóc. Vì mẹ chúng đã cạn sữa. Vì không có vệ sinh, nên nhiều người sinh bệnh.
Nhưng họ vẫn chờ đợi và cầu nguyện.
Cuối
cùng, vào khoảng ngày 10 tháng 11 những đại diện của UH đã tới Phát Diệm. Thành viên trong đoàn về
sau nói với tôi rằng họ không chịu nổi mùi hôi thối đến phải nôn mửa, khi họ
hãy còn cách xa khu nhà thờ cả trăm mét. Những thành viên người Canada nói ngay cả những người Ba Lan trong đoàn cũng ngạc nhiên về sự dơ dáy bẩn
thỉu mà dân tỵ nạn phải chịu đựng.
Nhân
viên UH đã lập tức ra lệnh cho dân được ăn uống và đi lại tự do trong khuôn
viên nhà thờ. Họ mạnh mẽ phản đối nhà cầm quyền Việt Minh, và ra tuyên bố ở Hà Nội chống chính phủ Hồ Chí Minh đã áp bức dân Phát Diệm.
Để
xoa dịu dư luận thế giới, Việt Minh đã ra lệnh cho các giới chức địa phương phải
cho phép dân ra đi. Nhưng ngay trong lệnh này cũng có cái bẫy của nó.
VM
lập những văn phòng có khả năng giải quyết mỗi ngày 100 người. Một văn phòng
cấp thông hành, nhưng chỉ sau khi đương đơn trình đủ giấy tờ cần thiết. Một văn
phòng khác bán vé để được lên xe buýt của VM cung cấp, để nói là sẽ chở tới Hải
Phòng. Giá một vé xe buýt là 8000 đồng Hồ Chí Minh, tương đương với 9 Đô-la
Mỹ. Đối với gia đình dân quê 6 người thì đây là một món tiền quá lớn.
Nhưng
để trả lời những câu hỏi từ khắp nơi trên thế giới về cuộc di tản này, VM trả
lời: “Vâng, chúng tôi cung cấp văn phòng, thông hành, và phương tiện di chuyển cho
những người – bị lầm, chúng tôi tin chắc thế– mà quyết định đi sang vùng
khác...”
Mãi
tới ngày 15 tháng 11 toán đầu tiên mới bắt đầu rời Phát Diệm. Thay vì đưa họ đi trên đại
lộ, chỉ vài giờ là tới nơi, VM đã chở họ đi theo một con đường vòng vo trắc
trở. Một phần họ cho đi xe buýt. Rồi bị chặn lại, nói là xe hư cần phải sửa. Và
như thế phải đợi vài ngày. Trong thời gian chờ đợi, VM không ngừng thuyết giảng
về sự sai lầm đòi di cư và về sự tàn ác của người Pháp và người Mỹ ở Hải Phòng và Sài Gòn.
Sau
đó dân di cư được chuyển sang những chiếc thuyền, bè lênh đênh trên sông Hồng.
Lại thêm chờ đợi, xách nhiễu, và thất vọng. Đến được Hà Nội, sẽ có xe lửa chở họ đến
Hải Phòng. Từ đó xe của Pháp sẽ chở họ đi những cây số còn
lại để tới trại của chúng tôi.
Hàng
ngàn người đã kiên nhẫn trải qua hết khó khăn này, trở ngại kia để tới được một
địa điểm xa bên kia bức màn tre. Nhưng đến được đó thì ôi thôi, giấy thông hành
của họ đã hết hạn. Thế là lại phải trở về nguyên quán, và làm lại mọi thủ tục
rắc rối, nếu còn đủ sức.
Những
người tỵ nạn may mắn hơn thì gặp được hải quân Pháp vớt đưa lên tầu của họ.
Những chiếc tầu này đã chờ đợi họ ở ven ranh giới bức màn tre, nơi có cái tên
là Cac Cuu (?) Tại đây tầu Pháp chặn tất cả thuyển bè của VM, và trước mặt đại
diện của UH trên tầu, họ yêu cầu VM phải trao người tỵ nạn để chở đi Hải Phòng.
Bất
chấp mọi phiền nhiễu và trắc trở, cực nhọc, bất chấp cả những bài thuyết giảng
liên tu bất tận đến điên người, bất chấp những phương tiện chuyên chở thiếu
thốn, và bất chấp cả sự tàn nhẫn dã man của VM muốn kìm chân họ, những đoàn
người di cư vẫn không nản. Chỉ tại Phát Diệm không thôi, đã có 5000, trong số 35,000 người
ban đầu muốn đi, đến được bến bờ tự do (nghĩa là chỉ có một phần bảy, còn 6
phần 7, tức 30,000 người đã bị VM cản trở không thể vượt qua). Đó là theo con
số chính thức của ủy hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến.
Bùi Chu đồng nghĩa với lòng dũng cảm
(chương XIII)
Chiến tranh tạo nên những anh hùng, và anh hùng ca.
Nhưng hòa bình ở miền Bắc Việt Nam, lạ lùng thay lại cũng tạo nên vô số hành
động anh dũng chẳng khác gì trong chiến tranh.
Tôi
biết nhiều chuyện như thế. Chính tôi chứng kiến hàng chục, và nghe kể hàng trăm
chuyện như vậy.
Tôi
nhớ những người dân tỵ nạn từ tỉnh Bùi Chu đến trại chúng tôi vào tháng 11. Ở Bùi Chu
cũng như ở những nơi khác, dưới “ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê” chỉ có bóng
tối, và sự đầm ấm của gia đình đã chết trong những căn nhà tranh của người dân.
Nhưng tinh thần của người dân đã không chết. Niềm hy vọng của họ vẫn tồn tại.
Nông
dân Bùi Chu tương đối giầu. Nhưng rồi chiến tranh đã làm
họ mất cả. Họ chỉ còn Thượng Đế.
Ngày
nay chính quyền mới áp đặt luật lệ mới. Nông dân phải nghe thuyết trình mỗi
ngày về sự độc ác và những sai trái của tư bản... Cả tỉnh trở thành như một nhà
tù mênh mông. Sách giáo lý bị đốt, tôn giáo bị chế diễu là thuốc phiện. Cải
Cách Ruộng Đất đôi khi đem lại cho người vô sản có đất, nhưng
không phải cứ có nhiều đất hơn thì có thực phẩm hơn.
Nhiều
người dân Bùi Chu đã bị xử tử. Con cháu họ đã kể lại cho tôi
nghe. Tôi nghĩ họ không nói dối. Đối với dân Bùi Chu chỉ có một lối thoát là
trốn đi. Hy vọng và mơ ước chuyện đó thì dễ, nhưng không dễ để thực hiện. Bùi
chu có khoảng 30,000 dân. Đã có kế hoạch cho họ trốn. Từ phía những tổ chức bí
mật của người Việt, cũng như từ phía hải quân Pháp và hải quân Mỹ. Ngày giờ,
địa điểm được ấn định như sau: Ngày 30 tháng 11, tại một bãi biển gần làng Văn
Lý.
Một
chiếc tầu sửa chữa lớn của Pháp, chiếc Jules Verne, đã đậu sẵn ngoài khơi,
ngay bên ngoài giới hạn 3 dặm. Rồi 4 chiếc LSM được kéo tới sát bên tầu Jules
Verne, làm ra bộ như để được sửa chữa. Và cũng làm ra như tình cờ có chiếc vận
tải hạm to lớn của Hải quân Hoa Kỳ vắng khách đi qua từ Sài Gòn trở về Hải Phòng. Tầu này cũng dừng lại ở đó
trong chốc lát.
Bộ
phận bí mật của người Việt đã loan truyền tin tức cho dân. Tới giờ trốn kém 10,
biển động. Trên giải 3 dặm nước dậy sóng lớn từ tầu tới bãi, không thấy có gì,
chỉ có ánh trăng, nhưng trăng sáng quá... quá nguy hiểm. Rồi giờ trốn đã tới,
đúng 8 giờ. Trong vài phút mặt biển đầy những thuyền, bè, mảng, sà lan.
Hàng
ngàn dân trên bờ đang kéo thuyền bè của họ qua bãi cát tới chân nước. Họ nhắm
tiến tới chiếc tầu của Pháp cũng chạy nhanh về phía họ.
Hai
bên gặp nhau. Tầu Pháp há mồm ra lặng lẽ đón dân tỵ nạn vào hết lớp này đến lớp
khác. Rồi nó quay đầu trở ra tầu lớn, 2 chiếc Jules Verne và Brewster. Trên một chiếc bè nhỏ bằng những cây luồng (một
thứ tre lớn) cột lại với nhau, có lẽ chỉ vài mét vuông có thể có cả một gia
đình đông tới 10 người mặc quần áo nâu, lặng lẽ, sợ sệt. Nếu vì chở nặng quá,
mà chiếc bè chìm, đôi khi đến đầu gối, thì họ sẽ giơ những đứa trẻ lên cao.
Trăng
sáng có để họ đi thoát không? Biển động liệu có khỏi đánh đắm tầu họ không? Tầu
lớn chỉ có hai chiếc, liệu có đủ chỗ không? Liệu kẻ thù đã nghi chưa? Liệu
những súng máy có nhả đạn làm kinh hoàng, hoảng loạn trong đêm không?
Những
cái sợ đó dày vò họ trong khi tiến ra biển khơi. Nhưng họ là những kẻ dũng cảm
dám liều với hiểm nguy, kể cả cái chết. Đến hửng sáng đã có 6000 người lên được
2 chiếc tầu Mỹ và Pháp và được chở đi Hải Phòng. Dẫn mọi người vào trại
Chùa xong, 2 tầu trở lại Bùi Chu để đón thêm nữa.
Công
việc kéo dài trong 2 ngày hai đêm cho đến khi số người tỵ nạn lên đến 18,000.
Ngày thứ 3 không còn thấy dân tỵ nạn nữa, chỉ trừ một nhóm nhỏ bị bỏ rơi trên
một mỏm cát. Lính Việt Minh xuất hiện và cuộc vượt thoát phải ngưng.
Nhưng
những người còn bị giam lại không ngừng ước mơ. Mong có một cơ hội khác. Họ sẽ
lại thử thời vận.
Khi
có đoàn người mới tới, những người đã tới mấy hôm trước, cầm đèn, nến đứng hai
bên dọc đường dẫn vào trại, còn những người mới tới đi thành hàng dài ở giữa
hai hàng đèn, nến chập chờn như một cuộc diễn hành thật cảm động. Người ta hỏi
nhau để biết tin tức về thân nhân. Có những câu hỏi lo lắng, thường thường vô
vọng như:
-
Ông (bà) có thấy ai thuộc gia đình Đức Lý không?
-
Chị (anh) có nhìn thấy ai bơi ra khỏi chiếc thuyền bị đắm không?
-
Các bạn có nghe tin tức gì về dân làng Thanh Hòa không?
-
Cháu có gặp con bác không? nó bảy tuổi ấy mà..
Cũng
có người tìm lại được thân nhân. Nhưng hầu hết thì không.
Những
ngày và tuần lễ sau đó, dân di cư từ Bùi Chu cần được săn sóc liên tục về y tế. Nhiều trẻ
em bị đậu mùa. Nhiều em khác bị dịch lở, chốc. Có lẽ đã đến giai đoạn hai. Sốt
dữ dội. Mất nước nhiều quá. Và tôi đã phải mất 4 ngày cho chỉ một chứng dịch lở
này.
Rất
nhiều người bị phù thủng, vì thiếu sinh tố do thiếu ăn kể từ ngày có Cải Cách
Ruộng Đất. Nhiều người đói lả, không
đến nỗi chết, nhưng tàn tạ, với đủ thứ thương tật.
...
Mỗi ngày chúng tôi phải chữa trị trên 200 trường hợp, 200 thân thể dị dạng đầy
những vết thương hôi hám thối tha, trên bàn tay, bàn chân và cả ở mặt.
Chứng
say sóng càng làm cho những bệnh nhân trở nên suy kiệt. Tất cả những con người
khốn khổ trốn chạy Việt Minh vào ở trong trại Chùa nay trở thành
bệnh nhân mà tôi phải cứu chữa.
Người
dân Bùi Chu, tôi đã thấy, họ
không khác gì người Mỹ. Người Mỹ không thể nào không thích họ, khi đã biết họ.
Không thể nào không kính trọng lòng khao khát tự do của họ. Không thể nào không
cảm phục khen ngợi những con người dũng cảm của Bùi Chu. Sự khác biệt chính
giữa người Mỹ và người Việt là: Người Mỹ chúng tôi có tự do và trái tim chúng
tôi khiến chúng tôi cố duy trì tự do mà chúng tôi có. Còn người Việt thì không
có tự do và trái tim của họ thúc đẩy họ phải đấu tranh bằng mọi cách để đạt
được tư do.
Và
cứ thế người chạy trốn CS tiếp tục tuốn đến trại chúng tôi, như mưa không ngớt
giữa mùa mưa, rơi rớt ra cả bên ngoài, tràn lan tới những con đường và cánh
đồng xung quanh. Chúng tôi lo cho họ lên tầu để vào Sài Gòn sớm chừng nào hay chừng ấy. Mỗi ngày chúng tôi
đưa lên tầu từ 4 đến 5 ngàn người. Nhưng số người vào trại mỗi ngày thường đông
hơn thế.
Đây
là cư dân của trại của tôi. Thành phố của tôi gồm những lều vải nằm ngổn ngang
cắm trên những vũng bùn lầy sâu đến đầu gối. Chúng tôi tăng trưởng với sâu bọ,
rác rưởi, bệnh tật và chết chóc. Nhưng trại của chúng tôi cũng là trại của hy
vọng, tự hào và đầy dẫy những chuyện anh hùng.
Trại cô nhi của bà Ngải (chương XIV)
Chương
này dài gần hai chục trang, được trung úy Dooley thuật lại một cách cảm động, khiến người đọc
chẳng những cảm phục bà Ngải mà nhất là mến thương những đứa trẻ mồ côi ngoan
ngoãn, trong đó phải kể đến bé Lia mới 7 tuổi đầu, lại bị mìn chặt cụt một chân
mà vẫn cố sức làm việc, giúp cả việc bệnh xá của tác giả.
Dưới
đây chúng tôi chỉ tóm tắt lại trong vài hàng.
Gần
trại Chùa có một trại mồ côi của bà Ngải, nuôi dạy gần
một ngàn trẻ mồ côi. Dooley chăm lo sức khỏe cho đám này thêm vào công tác
y tế thường xuyên của trại Chùa. Bà Ngải là người duyên dáng mà có lòng thương trẻ,
dành cả cuộc đời cho trẻ. Bà đã gần 60, nhưng còn nhanh nhẹn, duyên dáng như
mới 30. Trước kia bà cũng thuộc loại giầu có nhất trong một tổng thuộc tỉnh
Thanh Hóa. Chiến tranh, ngay từ những
ngày đầu đã giết chồng bà. Hai con bà hiện ở Pháp. Bà nói tiếng Pháp như đầm.
Chiến tranh giết không biết bao gia đình. Trẻ mồ côi đầy đường không ai trông
coi. Bà Ngải đi lượm lặt về nuôi... Cứ thế từ vài đứa lên đến vài chục, vài
trăm và sau cùng gần một ngàn. Bà đưa vào Nam được hơn 800 đứa, hầu hết là
thuộc các gia đình Phật Giáo. Dooley gọi chúng là những
Phật tử mồ côi rất ngoan.
Vào
được Sài Gòn rồi, các trẻ của bà Ngải được hội các bà vợ Mỹ
cung cấp nhà và phương tiện để sinh sống và học tập. Phải bỏ quê hương đi bà
rất buồn nhưng bà tin tưởng rằng Bắc Việt sẽ được giải phóng trong tương lai. Bà cứ nấn
nã mãi không chịu xuống tầu di cư. Nhưng đến giữa tháng tư VM bắt đầu cho quấy
phá Hải Phòng. Tình hình bất ổn. Lúc ấy bà mới vội vàng cho 800
trẻ của bà xuống tầu, đem theo đủ thứ của trại, nhờ sự giúp đỡ tận tình của các
cơ quan Hải quân Mỹ và Pháp. (Người Pháp và người Mỹ cũng như dân chúng Hải
Phòng rất sợ là Việt Minh có thể “giải phóng” Hải Phòng trước kỳ hạn
chót được ấn định vào tháng 5 năm 1955).
Chính sách “cải tạo tư tưởng” của Cộng Sản (chương XV)
Trẻ
con Việt Nam già rất sớm khi còn nhỏ. Chúng có vẻ chững chạc và nghiêm nghị khi
hãy còn là thiếu niên, và đặc biệt là thường rất dũng cảm.
Có
một số trẻ làm việc cho chúng tôi trong trại, ở lại đó nhiều tháng. Chúng làm
những việc của người lớn, đảm đương những trách nhiệm của người lớn; khi được
hút thuốc lá, chúng cũng hút như người lớn. Mà chúng chỉ mới 10, 12 tuổi hay 8
tuổi. Mỗi y tá của tôi được tôi cung cấp cho 6 hay 7 đứa trẻ như vậy giúp việc.
Chúng hân hạnh được đội mũ hải quân. Một số còn lại bám sát theo tôi cả ngày
lẫn đêm, lắm lúc cũng thấy phiền. Chúng có thể đến gọi tôi đến cứu một bà già
quá yếu không đủ sức rời lều, hay lôi tôi tới một người đàn ông tàn tật. Chúng
có thể chạy những việc vặt, tìm đồ vật tôi cần, nấu nước sôi cho lều bệnh xá. Đôi
khi chúng giặt quần áo giúp tôi. Nhưng trong trường hợp như thế chúng thường
thích giặt trong nước ruộng lúa, dĩ nhiên tôi không để chúng giặt như vậy.
Thỉnh thoảng chúng còn dám lái xe truck của chúng tôi để làm trò vui chơi. Trẻ
con thường thích thứ trò chơi đó.
Có
thời gian tôi ở khách sạn thì chúng ngủ bên ngoài cửa. Thường chúng đóng vai
liên lạc khi có toán người vừa trốn thoát được tới nơi và cần giúp đỡ ngay.
Bất
cứ lúc nào ông Hàm (Mai Văn Hàm) hay một viên chức Việt nào
khác muốn gặp tôi, họ chỉ cần để ý thấy đứa trẻ nào đội mũ hải quân, hay một
đứa bé đánh giầy, bảo nó đi tìm “bác sĩ Mỹ”.
Khi
có một đứa trong số những “phụ tá” đó lên đường vào Nam, chúng tôi thường có
một chút nghi lễ tiễn đưa nó. Nhiều sĩ quan trên tầu đã từng tặng tôi những huy
hiệu cấp bậc thiếu úy. Vậy là trong ngày có nghi lễ, ông “quan hai” sẽ gắn lon
cho vị phụ tá của mình lon “quan một” hải quân. Lon đó được gắn trên vai đứa
trẻ phụ tá làm thêm vẻ quan trọng trước sự chú ý của mọi người. Tôi hy vọng
phòng Nhân Viên của Hải Quân sẽ hiểu và thông cảm khi nghe biết về dịch vụ
tuyển thủy binh bất thường của tôi. (...)
Việt
Minh tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong đám trẻ
con và thiếu niên trong nước... Lần đầu tiên tôi được biết về việc này là vào
tháng 12 (năm 1954).
Sau
khi đã tiếp thu quyền kiểm soát một làng ở tỉnh Hải Dương, Việt Minh CS đến thăm trường làng và đưa 7 em bé ra khỏi
lớp, bắt ngồi xuống sân trường. Bàn tay và cánh tay các em bị trói giặt cánh
khỉ ra sau lưng. Rồi chúng lôi một giáo viên trẻ ra, tay cũng bị trói như vậy.
Rồi lớp học bắt đầu.
Với
giọng nói lớn đủ để những học sinh còn ngồi trong lớp nghe được, cán bộ VM tố
cáo những học sinh này về tội phản quốc: “Một “người yêu nước” đã báo cho
công an biết giáo viên này đã mở những lớp học bí mật, vào ban đêm, để dạy tôn
giáo. Chúng học cả kinh bổn.”
VM tố cáo 7 đứa trẻ về tội “mưu phản” vì đã nghe lời
dạy của giáo viên này. Để trừng phạt tội đó, những đứa trẻ sẽ bị hủy thính giác.
“Chúng sẽ không bao giờ còn có thể nghe được những lời nói bậy của kẻ ác.”
Sau đó hai cán bộ VM đến bên mỗi đứa trẻ, một tên
nắm chặt đầu em bé bằng hai bàn tay rắn chắc. Tên kia lấy chiếc đũa bằng gỗ vót
nhọn đóng vào mỗi lỗ tai. Nó đóng hết sức mạnh. Chiếc đũa xé toạc lỗ tai ra và
làm thủng màng nhĩ. Tiếng la hét của đứa trẻ cả làng đều nghe. Cả hai lỗ tai
đều bị chọc thủng bằng cách đó.
Bảy
đứa trẻ la hét thất thanh, vùng vẫy, giẫy giụa, đau đớn kinh khủng. Vì cả hai
tay đã bị trói đàng sau lưng, nên chúng chẳng có cách gì rút những chiếc đũa
ra. Chúng lắc lư cái đầu, quằn quại trên đất cố làm cho những chiếc đũa rớt
ra...
Về
phần giáo viên, VM phải ngăn chặn không cho anh ta còn khả năng dạy dỗ nữa. Sau
khi bị cho chứng kiến nỗi đau đớn cực hình của những học sinh yêu quý của mình,
đến lượt người thầy giáo trẻ cũng bị cực hình như sau: Một tên lính VM giữ chắc
đầu giáo viên trong khi tên kia lấy kìm kẹp đầu lưỡi lè ra khỏi miệng để tên
thứ 3 dùng lưỡi lê xẻo đứt luôn. Máu chảy xối xả vào miệng, phun ra đàng mũi và
văng vãi xuống đất. Nạn nhân đã không có thể kêu la một tiếng. Máu chảy cả vào
cuống họng. Khi mấy tên lính VM bỏ anh ta ra, anh ta liền té xuống đất và thổ
ra máu. Mùi máu tanh tưởi bốc lên từ khắp mặt sân trường.
Nhưng,
người giáo viên cũng như 7 học sinh vẫn không chết. Khi tin dữ này xuyên qua
bức màn tre, thì người ta tìm cách cho những nạn nhân trốn thoát. Và chẳng bao
lâu 8 nạn nhân nói trên đã có mặt trong căn lều số 130, trại Chùa. (Trại tỵ nạn tạm thời ở Hải Phòng là nơi tác giả làm việc có tên là “Camp de la
Pagode”)
Chúng
tôi hết sức mình cố chữa trị nạn nhân, tuy nhiên cũng không hoàn toàn như ý...
Giáo
viên đó không ăn được, chỉ uống đồ ăn lỏng. Các học sinh đó không bao giờ nghe
lại được nữa!
Tôi
viết những điều này ra không phải để làm buồn nôn và buồn lòng bất cứ ai, hay
có ý nhấn mạnh sự tra tấn tàn ác, dã man của ngưới Á Đông, là điều đã từng xảy
ra trong thế chiến II và tại Hàn Quốc. Nhưng tôi thực sự muốn cho
mọi người thấy những cực hình mà người dân ở châu thổ sông Hồng Hà phải chịu.
Và công lý đòi hỏi phải ghi vào lịch sử một số điều cực ác mà chúng tôi được
biết ở Hải Phòng.
(...)
Một
đêm khuya, sắp đến giờ lễ Giáng Sinh, tôi bị đánh thức bởi những tiếng gõ cửa
phòng ngủ. Có hai em nhỏ nói vọng vào xem “bác sĩ Mỹ” có sẵn sàng theo chúng đi
ngay không? Tôi nghĩ chúng là những “phụ tá” tí hon của chúng tôi ở trong trại,
và chắc đã xảy ra chuyện gì trong đó mà tôi cần phải chú ý. Vì thế tôi mặc quần
áo thật nhanh và leo lên xe truck. Nhưng khi tôi lái thẳng trên xa lộ, thì hai
đứa trẻ ra hiệu cho tôi quẹo vào một đường nhỏ ở giữa hai thửa ruộng. Tôi chẳng
hiểu gì, nhưng vì chúng có vẻ tha thiết, khẩn khoản quá nên tôi lái theo hướng
chúng chỉ. Chúng tôi quẹo và đi vài trăm mét nữa thì tới một túp lều tranh, hay
đúng ra là một ngôi nhà tròn giống như túp lều. Tôi cúi người bước vào trong.
Tôi thấy sao tối quá, và rộng không thể ngờ. Có một ngọn đèn dầu thắp sáng ở
một phần nhà và gần đó có mấy người đang quì gối. Một người đàn ông, một người
đàn bà và vài đứa trẻ. Họ đang hát thánh ca để cầu nguyện một cách đồng điệu,
buồn rầu. Họ chào tôi bằng câu: “Chào ông bác sĩ Mỹ”, vừa nói vừa chắp tay vái
chào theo lễ phép phương Đông. Rồi tôi nhìn thấy một người đàn ông nằm trên một
chiếc nệm rơm được đặt trên 8 hay 9 thanh tre, tạo thành một chiếc cáng. Khuôn
mặt ông ta méo xẹo quằn quẹo trong cơn hấp hối. Cặp môi mấp máy yên lặng như
đang cầu nguyện. Mà thực sự ông ấy đang cố đọc kinh thầm.
Khi
tôi kéo tấm chăn phủ trên người ông ta ra, thì thấy một tảng thịt bầy nhầy đen
xám từ vai xuống gối. Bụng rắn và sưng phồng. Bừu dái sưng to như quả bóng đá.
Hai đùi biến dạng trông quái gở. Đây là một trong những cảnh tượng rùng rợn
nhất mà tôi đã từng thấy. Ý nghĩ chỉ đụng vào người này cũng đủ làm tôi kinh
tởm.
Tôi
buồn nôn, và cảm thấy mình sắp nôn mửa ra, nên vội chạy ra ngoài: Trong căn
lều, tôi đã vừa thấy rõ một kiệt tác về sự tra tấn có hệ thống. Dưới trời đêm
tôi đã mửa ra tất cả những gì tôi có trong bụng. Tôi cám ơn những người trong
lều vì đã không theo tôi ra ngoài. Họ hiểu, và kiên nhẫn.
Tôi
không nhớ rõ phải mất bao lâu tôi mới tự chủ được. Nhưng cuối cùng tôi đã có
thể bình tĩnh lại và trở vào để săn sóc nạn nhân, được coi như một cơn ác mộng
của con người. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi có thể chích Morphine để giảm đau.
Về cái bụng tôi có thể làm được một chút. Vì da chỉ bị nứt ở 4, 5 chỗ. Chảy máu
toàn là dưới da tại những chỗ bầm tím đang chuyển sang màu vàng-tía. Tôi châm
một mũi kim to vào bừu dái để cố rút bớt nước ra. Sau này tôi cũng luồn vào
trong bọng đái một ống plastic nhỏ để giúp nạn nhân đi tiểu. Tôi có thể làm gì
hơn?
Tôi
hỏi người đàn bà chuyện quái quỷ gì đã xảy ra cho người này? Bà ta nói:
Vùng
này đã rơi vào tay Việt Minh chỉ mới 7 tháng nay. Vì thế họ chưa thay đổi
được hoàn toàn lối sống cũ. Linh mục hãy còn được phép làm lễ, nhưng chỉ được
làm giữa 6 giờ và 7 giờ sáng. Đó là thời gian hầu hết nông dân sẵn sàng khỉ sự
công việc đồng áng. Theo luật lệ CS, đó cũng lại là giờ mà dân làng phải tập
họp lại tại khu công viên của làng để nghe thuyết trình hàng ngày về vinh quang
của đời sống mới.
Như
vậy có nghĩa là giáo dân không thể nào có thể đến nhà thờ dự lễ của linh mục,
dù là ngày thường hay chủ nhật. Vì vậy vị linh mục 57 tuổi dũng cảm này đã chấp
nhận mọi hiểm nguy để làm lễ vào buổi chiều, trái lệnh trên. Vì thế Việt Minh CS quyết định vị linh mục này phải được “cải
tạo” hay giáo dục lại.
Đêm
hôm trước, lính CS tới nhà nguyện của linh mục, tố cáo ông đã hội họp bí mật và
ra lệnh phải ngưng ngay. Nhưng linh mục thách thức, trả lời rằng không gì có
thể bắt ông ngưng rao giảng lời Chúa. Và sau đây là những gì bọn họ đã làm: Ông
bị treo 2 bàn chân lên trần nhà. Đầu gần chạm đất. Với những thanh tre rắn chắc
chúng bắt đầu đánh ông để “đuổi tà ma” ra khỏi ông. Chúng đánh trong
nhiều tiếng đồng hồ. Ông không biết nó kéo dài bao lâu. Chúng tập trung đánh
vào những chỗ nhậy cảm nhất của thân thể.
Chúng
nó để ông bị treo như thế rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, mấy trẻ giúp lễ của linh mục
tìm thấy ông ở đó và cố hạ được ông xuống. Những em bé này chỉ có 9, 10 tuổi.
Chúng chạy vội đến báo cho cha mẹ chúng, vừa nói vừa khóc nức nở. Cha mẹ chúng
đang bị bắt dự lớp học tập cưỡng bách tại sân đình làng.
Mấy
đứa trẻ dùng dây chằng những thanh tre lại với nhau làm thành cái bè tí xíu có
thể nổi trên mặt nước, vừa dùng làm cáng khiêng trên bờ cũng được. Chúng đặt vị
linh mục trên đó rồi khiêng xuống phía sau làng. Chúng giấu ông ở gần bờ sông.
Con sông này là biên giới của vùng tự do. Khi trời tối hẳn, chúng nhẹ nhàng hạ
chiếc bè-cáng xuống nước. Rồi mỗi bên 3 đứa, chúng chèo ra giữa sông và được
nước chảy cuốn đi. Nước lạnh có lẽ đã là liều thuốc tốt cho vị linh mục, còn
hơn hầu hết mọi loại thuốc của chúng tôi. Những đứa trẻ đã xoay xở đế đưa được
cái bè qua sông mà không bị ai thấy. Mãi khuya chúng mới đưa được ông đến được
căn lều của chị ông. Rồi chúng chạy đi tìm tôi. Sau đó ngày nào tôi cũng đến
thăm ông ấy và cho ông ấy thuộc trụ sinh và morphine. Thật là một phép lạ, vị
linh mục thoát chết. Phần thì nhờ cơ thể khỏe mạnh, phần nhờ đức tin.
Tôi
không thể ngờ rằng chẳng bao lâu ông đã có thể thường xuyên làm lễ như một
tuyên úy cho trại Chùa.
Có
lẽ đáng lý chúng tôi đã phải để ông đi, khi ông xin được trở lại làng cũ. Và có
lẽ thế giới cần có những vị tử vì đạo, mặc dù Bắc Việt thì đã có quá nhiều rồi.
Tôi biết thật là không công bình nếu xét đoán toàn bộ một
chế độ dựa theo sự hành xử của một số ít. Tuy nhiên đối với tôi, cộng sản đúng
nó là như vậy. Đó là một thứ ma cà rồng. Nó đã chiếm lãnh gần hết Đông phương.
Và như thế là gần phần nửa nhân loại. Từ tháng 12 đến ngày cuối, mỗi tuần có
hai hay ba trường hợp tàn bạo của CS như vậy xảy đến chỉ trong vùng của riêng
tôi. Những chuyến ra đi vào đêm cứ dẫn tôi gặp hết kinh hãi này đến kinh hãi
khác.
Những
ngày đầu của tôi ở Hải Phòng tôi lấy làm lạ lùng khó hiểu không phải vì số
trường hợp càng ngày càng tăng mà vì tính chất của sự tàn bạo. Quá nhiều trường
hợp mang ý nghĩa tôn giáo. Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng những sự
trừng phạt của CS có liên hệ đến đức tin của con người vào Thượng Đế.
Cho
đến bây giờ, những linh mục là đối tượng chính của khủng bố CS. Dường như những
ông này không bao giờ chịu “học tập dân chủ” như CS mong muốn. Vì vậy CS cần
phải cưỡng bách các ông ấy “học tập” một cách “nghiêm ngặt” (tàn nhẫn) hơn
những kẻ khác. Thật khó có thể uốn nắn những người đã có lòng tin sắt đá vào
Thượng Đế để làm cho họ bỏ niềm tin đó. Thực tế là những người đó không thể bị
chinh phục.
Người
Công Giáo có những lời kinh rất đạo đức thành kính, như “Ôi Giêsu Maria Giuse”,
“Lạy Chúa hãy thương xót chúng con”. CS ra lệnh cho linh mục phải thay những
câu đó bằng những khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất”, “Chiến tranh nhân dân”. Có lẽ
hai tiếng “căm thù” là được nghe nói nhiều nhất trên vùng VM chiếm đóng. Chúng
đã hoàn chỉnh phương pháp tra tấn, bằng cách lúc thì chúng làm cho thân xác đau
đớn, rồi sau đó làm khổ tâm trí...
Ngày
chủ nhật đầu tháng 3, cha Lopez thuộc xứ đạo Phi Luật Tân xin tôi đến thăm một người ốm, một linh mục
Việt Nam vừa thoát khỏi vùng VM.
Chúng
tôi đi qua một khu sân rộng, đến khu dân cư. Ở trong phòng sau có một người đàn
ông nằm trong đống rơm trên sàn nhà. Đầu ông ta đầy những mủ. Có 8 chỗ bị sưng
phồng với mủ xung quanh trán và thái dương. Trước khi hỏi vì đâu nên cớ sự, tôi
đã biết câu trả lời. Vị linh mục đặc biệt này đã rao giảng sự phản động, phản
bội. CS đã tuyên án ông bị đội mũ gai giống Chúa Giêsu mà ông rao giảng.
Tám
chiếc đinh đã được đóng vào đầu vị linh mục. Ba chiếc ở trán. Hai ở phía trên
gáy. Và ba chiếc trên đỉnh đầu. Đinh khá dài đủ để có thể cắm tới xương sọ. Sau
khi thực hiện hành động độc ác đó, chúng để vị linh mục ở đó một mình. Ông cố
đi tới một túp lều gần đó. Gia đình trong lều cố rút mấy chiếc đinh ra. Rồi ông
được đưa tới Hải Phòng để cấp cứu. Trước khi tới nơi, hai ngày sau
đó, thì những vết thương đã nhiễm trùng sang giai đoạn hai.
Tôi
rửa da đầu. Gắp những thứ đóng cục trong các vết thương. Và nặn mủ ra. Tôi cho
vị linh mục dùng thật nhiều penicilline, và thuốc chống phong đòn gánh. Và mỗi
ngày tôi đều trở lại thăm. Ông ấy đã khá. Một hôm tôi đến để cho thuốc, thì
thấy ông ấy đã biến mất. Cha Lopez bảo tôi ông ta đã trở lại thế giới thầm lặng
bên kia bức màn tre. Như vậy là ông trở lại với những kẻ đã tra tấn ông. Giờ
này đây (1956) tôi tự hỏi, chúng đã làm gì vị linh mục ấy?
Không
phải chỉ có linh mục này mới là nạn nhân của sự tàn ác. Một ngày kia có một phụ
nữ đến trạm xá của trại xin chữa trị.. Bà ta quấn một miếng vải quanh hai vai
theo hình số 8. Chúng tôi tháo vải ra thì thấy cả hai xương vai đều bị vỡ rồi.
Bà ta nói bị VM chặn trên đường đi tìm đường di cư. Bọn gác đã đánh bà vì tội dám
toan bỏ nước ra đi. Chúng lấy báng súng đập nát vai bà, bắt quay lại. Nhưng
rồi, dù bị thương nặng bà ta cũng đã cố tìm cách trốn được. Vừa kịp thời để
được chữa lành.
Tôi
luôn luôn có một ý nghĩ hết sức đau buồn: “Chúa ơi, để một người trốn thoát
được đến đây, ắt phải có hàng trăm người đã không chạy thoát.”
Một
hôm có một người đàn ông đến bệnh xá với hai ngón tay cái biến màu rõ rệt. Từ
đốt đầu đến đầu ngón, một màu đen. Đây là bệnh thối hoại loại khô, y học gọi là
“mummification”. Không đau dữ lắm. Không chảy máu. Chỉ có sự hoại mô và đau
buốt.
Ông
ta nói chúng nó đã cột thừng vào hai ngón tay cái ông, rồi treo lên để “cải
tạo”. Đã một tuần qua rồi. Từ ngày đầu hai ngón tay cứ mỗi ngày lại đen thêm.
Và hôm nay thì bắt đầu xông mùi hôi thối.
Khi
khám bệnh, trong khi tôi cầm lấy ngón trái, thì một miếng thịt mủn rơi ra.
Không chảy máu, không đau. Chỉ có một mẩu thịt thối ở trong tay tôi. Miếng thịt
thối khô này sẽ vụn ra ngay nếu bạn chỉ khẽ bóp nó.
Một
trong số những người lớn tuổi bảo tôi: “Xin anh bạn nhớ cho rằng những người
này sẽ chẳng bỏ nhà ra đi, nếu CS không làm những điều ác độc này cho những
người rao giảng hay giữ đạo Chúa.”
Tôi nghĩ, chắc họ nói đúng. Trong số dân tỵ nạn có
nhiều người theo đạo Phật. Nhưng khi nghĩ tới số người dự lễ mỗi ngày tôi chắc
là người theo đạo Công Giáo phải từ 75 đến 80 phần trăm. Trong số 2 triệu giáo
dân Việt Nam, thì đã có tới 1 triệu 750 ngàn ở miền Bắc. Rồi CS tới. CS đã làm
dân bừng tỉnh, vỡ mộng về những cuộc cải cách mà chúng hứa hẹn. Có lẽ họ đã có thể
chịu đựng dù phải chống chọi với thuế cao quá đáng, với chỉ tiêu mùa màng vượt
mức, với chính sách lao công cưỡng bách và sự mất tự do. Nhưng khi mà quyền tự
do thờ Chúa cũng bị tước đoạt – thường bằng những biện pháp tàn bạo nhất – thì
họ biết đã đến lúc phải ra đi.
Một
vị niên trưởng nói: “Tụi Việt Minh thực điên khùng. Chúng ép buộc dân ở lại, bịa
đặt nọ kia, để cầm chân dân, thậm chí ngăn chặn ở biên giới. Rồi thì chúng lại
làm đủ điều khiến người dân bó buộc phải ra đi tỵ nạn! Có lẽ đây cũng là thánh
ý Chúa đấy.”
Nói
VM chặn dân tỵ nạn ở biên giới (của vùng chúng chiếm đóng), là còn nói nhẹ. Dù
hiệp định Genève đã quy định là ai cũng có quyền tự do chọn rời
bỏ miền Bắc nếu họ muốn, CS đã vi phạm quy định đó ngay từ ngày đầu tiên chúng
vừa ký hiệp định rồi.
Như
tôi đã nói ở trên, chúng dùng mánh lới đe dọa, bạo lực, và thậm chí tàn sát để
ngăn chặn sự đi Nam một cách ồ ạt của người dân trong vùng. Tại Sài Gòn, ngày 22 tháng giêng năm
1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: “Bổn phận của tôi là phải tố cáo
trước thế giới tự do và trước cộng đồng Ki Tô Giáo về những hành động vô nhân
đạo của Việt Minh nhằm đàn áp và cưỡng ép những người dân muốn
rời bỏ vùng CS. Đó là những hành động vi phạm trắng trợn hiệp đình Genève.”
Sau này ông Diệm đã ước lượng là có thể sẽ có một
phần tư triệu người di cư nữa nếu không bị VM sách nhiễu. Theo tôi, con số đó
phải gấp đôi. Dòng người liên tục kéo tới các trại Mỹ của những kẻ may mắn hơn,
và của những kẻ bị thương tật, vật vờ, xác xơ là đầu mối để tính ra số người đã
không thể ra đi. Ngoài ra, cũng còn phải nói đến hàng ngàn người khát khao tự
do, nhưng đã không đủ can đảm hay sức khỏe để chấp nhận hiểm nguy.
CS
có nhiều mánh lới và những mánh lới khác nhau để cầm chân người dân ở lại với
chúng. Chúng ra những luật lệ cấm 3 người trở lên của mỗi gia đình không được
di chuyển cùng một lúc trên một chiếc xe buýt hay xe lửa; cấm trên hai người đi
bộ chung với nhau trên những con đường hướng về vùng di tản. Điều này gây khó
khăn cho người muốn di cư có gia đình đông con mà không muốn xa cách nhau.
Tuy
nhiên vẫn có những cha mẹ tuyệt vọng cho con cái đi trước, hai đứa hôm nay, hai
đứa ngày mai, và căn dặn chúng là phải tìm đến các trại của người Mỹ. Hàng trăm
lần tôi đã thấy những thiếu niên đi một mình, kiệt sức, buồn rầu, tới nơi và
chờ đợi cha mẹ ở ven bìa trại. Nhiều khi chờ vô vọng.
Tại
nhiều nơi ở miền Bắc, CS ra luật phải có thông hành đặc biệt để đi từ tổng này
sang tổng khác. Để xin được thông hành phải tốn nhiều tiền và phải qua những
thủ tục hết sức rườm rà. Nhưng gia đình muốn di chuyển thành toán, không có
cách nào khác.
Sau
khi đã chờ đợi rất lâu để có được thông hành rồi, một gia đình có thể sẽ lên
đường đi bộ trên xa lộ tới Hải Phòng. Mười lăm, mười sáu ngày
sau, khi lương thực đã cạn, chân đã mỏi, đã đau, trong người lại bị bệnh, lúc
đó mới tới được biên giới tổng nhà. Họ bị đứng trước trở ngại nan giải: thông
hành đã hết hạn.
Cộng
sản sẽ xét tấm thông hành mà họ khó nhọc lắm mới có được và cười bảo: “Đồng
chí ơi, thông hành này chỉ có giá trị 14 ngày thôi. Đồng chí không biết sao? Ồ,
đồng chí không biết đọc? Được thôi, hãy quay trở về xin thông hành mới.”
Sau chiến tranh nhiều đoạn đường hãy còn gài mìn hay
cạm bẫy. CS đào chúng lên. Nhưng thường không cho nổ để phá đi. Trái lại chúng
vứt bừa vào trong ruộng lúa, bãi lầy, bụi rậm, làm như ngẫu nhiên vô tình.
Nhưng đó lại là những nơi ở vùng biên giới giáp ranh với vùng di tản. Nếu người
dân cố bò đi tìm tự do vào ban đêm rất có thể sẽ bị nổ tan xác.
Vậy
mà, điều khoản ghi trong hiệp định Genève như sau: “Bất cứ thường dân nào sống trong khu
vực do một bên kiểm soát muốn ra đi để sống trong vùng thuộc phía bên kia, thì
nhà cầm quyền trong khu vực đó phải cho phép và giúp họ thực hiện
theo ý muốn.”
Minh Võ
[1]
Tóm dịch từ cuốn Deliver Us From Evil, The
Story of Vietnam’s Flight to Freedom (214 trang) Farrar, Straus and Giroux
xuất bản lần đầu năm 1956, dịch theo bản in lần thứ 21 năm 1967.
No comments:
Post a Comment